Ngô Hương Giang
Bìa sách "Hiện tượng luận về văn học" |
Có lẽ chưa một khoa học nào lại có tầm ảnh hưởng mạnh
mẽ tới tư tưởng thế giới thế kỷ XX và XXI như Hiện tượng luận. Hiện tượng luận,
như ông tổ của nó, Edmund Husserl đã chỉ ra, trước hết, nó là một môn học về bản
chất các hiện tượng; và lập trường của nó kêu gọi chủ thể tính bằng phương pháp
truy nguyên bản chất hãy quay về với chính sự vật. Trải qua những phê phán và
không ngừng phê phán, Hiện tượng luận đã phát triển và hoàn thiện lập thuyết của
Husserl, với nhiều nhánh khác nhau, mà mỗi nhánh ấy đều có ảnh hưởng nhất định
tới các lý thuyết văn học “đình đám” trong 2 thế kỷ này.
Hiện tượng luận thông
diễn của M. Heidegger (Hermeneutical Phenomenology) đã đặt nền cho lý thuyết
thông diễn học trong văn học, với sự góp mặt của nhiều tên tuổi vĩ đại như H.
Gadamer, D. Hirsch, Paul De Man, P. Ricoeur, đặc biệt là sự mở ra với thuyết Giải
cấu trúc (Deconstruction) với các tên tuổi như J. Dérrida, M. Foucault, J.
Habermas… Hiện tượng học tri giác của Maurice Merleau Ponty từ khi ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị
trí của mình trong các khoa học nhân văn, đặc biệt là lý thuyết tiếp nhận trong
văn học, ở phương pháp phê bình ấn tượng, phê bình trực giác. Những phương pháp
này có sức ám ảnh lớn tới phê bình h(ậu)iện đại, mà chúng ta sẽ thấy sau này. Ở
Việt Nam, trước 1975, việc tiếp nhận Hiện tượng luận chủ yếu từ Hiện tượng luận
tri giác của Merleau Ponty, mà trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ nói rõ
hơn. Hiện tượng luận hiện sinh như là sự phát triển trực tiếp trên nền tảng Hiện
tượng luận tiên nghiệm của E. Husserl, có tác động trực tiếp tới lý thuyết văn
học hiện sinh, lý thuyết cơ cấu luận tinh thần với các tên tuổi lớn như J.
Sartre, K. Jasper, G. Marcel, J. Lancan, J. Piaget…
Sự kết hợp giữa hiện tượng luận với chủ nghĩa Marx của các
triết gia lớn như L. Althusser, K. Popper và đặc biệt là Trần Đức Thảo có ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống tư tưởng châu Âu. Xây dựng trên nền của khoa Hiện
tượng luận, P. Ricoeur đã thấy ở luận lý nơi Husserl những giới hạn cần bổ
sung, đặc biệt là phép phân tích ngôn ngữ như là trung giới giữa chủ thể ý hướng
tính và đối tượng mà ông kế thừa từ Hiện tượng luận thông diễn của Heidegger,
đã xây dựng nên thuyết Thông diễn hiện tượng luận (Phenomenological Hermeneutics)
(hay còn gọi là thông diễn học chiết trung). Trong đó, việc khai sinh vĩ đại của tư tưởng, tạo đà
cho sự hiện diện chủ nghĩa Hậu hiện đại những năm 60 của thế kỷ XX, có thể xem
là đóng góp lớn nhất trong lịch sử tư tưởng của Hiện tượng luận. Những lý thuyết
gia kỳ cựu của Hậu hiện đại đều là những học trò ưu tú của mái trường Hiện tượng
luận được khởi ra từ Husserl. F. Lyotard trước khi là vị chủ thuyết của Hậu hiện
đại đã từng là người phổ biến Hiện tượng luận vào các khoa học nhân văn như thể
lời “rào trước đón sau” cho sự xuất hiện của lý luận Hậu hiện đại. J. Dérrida,
trước khi viết cuốn Writings and
Difference đã là môn đồ xuất sắc của Hiện tượng luận qua cuốn Speech and Phenomena, Of spirit: Heidegger
and the question… J. Habermas trước khi là nhà lý thuyết Hậu hiện đại từng
là người ra sức khẳng định Hiện tượng luận tiên nghiệm của Husserl, chúng ta có
thể thấy qua cuốn sách có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng Hậu hiện đại nơi Habermas
của Tom Rockmore: Habermas on
Historical Materialism (Studies in Phenomenology and Existential Philosophy). Các tác giả như R. Rorty, M. Foucault, J. Culler đều
là những nhà nghiên cứu về Hiện tượng luận, bằng lối phân tích ngôn ngữ sử tính
của Heidegger và lý thuyết tín hiệu của Husserl… Chỉ chừng đó thôi, chúng ta đã
thấy sự ảnh hưởng lan rộng mạnh mẽ của Hiện tượng luận như thế nào.
Có
thể khẳng định ngay rằng, đến thời điểm này, ở Việt Nam chưa có chuyên luận nào viết về Hiện tượng luận trong văn học. Các
nhà nghiên cứu Hiện tượng luận ở Việt Nam, hoặc diễn giải thuần lý thuyết triết
học, hoặc chỉ giới thuyết Hiện tượng luận như một phương pháp phê bình trong
văn học, hoặc chỉ là những bài phê bình có tính ứng dụng lý thuyết Hiện tượng
luận vào một vấn đề, một tác phẩm văn học cụ thể.
Việc
tiếp nhận lý thuyết Hiện tượng luận trong vai trò triết học ở Việt Nam cũng
không thực sự phổ biến. Ngoài tác phẩm lập thuyết kinh điển của Trần Đức Thảo
có tên Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, đến nay chúng ta cũng chỉ có ba chuyên luận khảo về Hiện tượng
luận với vai trò là triết học, một cách chính thống (tức được in ấn và công bố).
Hai tác phẩm xuất bản trước 1975 và một tác phẩm xuất bản năm 2011, ngoài ra
còn có các chuyên khảo đăng tải trên mạng Inernet của Trần Văn Đoàn có tên Thông diễn học và khoa học nhân văn,
trong đó, ông dành 2 chương để bàn về Hiện tượng luận.
Như
chúng tôi đã chỉ ra, Trần Đức Thảo là người duy nhất ở Việt Nam đã sáng lập
(chúng tôi nhấn mạnh) Hiện tượng luận duy vật ngay từ những năm 50 của thế kỷ
XX. Trong công trình Hiện tượng học và Chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Trần Đức Thảo đã kéo Hiện tượng luận từ Husserl đến
gần với chủ nghĩa Marx, tác phẩm chứng tỏ ông đã đọc và nghiên cứu rất kỹ về những
truy luận của Husserl. Tuy nhiên, với việc quá ép mình vào chủ nghĩa Duy vật,
nên Trần Đức Thảo đã hiểu chưa đúng phần nào đó Husserl, đặc biệt là trong diễn
giải về Subjectivity. Hơn nữa, đúng như lời tự thuật của Trần Đức Thảo, ông
chưa từng đọc cuốn Cartesian meditations ( Những suy niệm trong tinh thần Descartes)
nên ông đã xem hoạt động hướng về thực tiễn của chủ thể là hành vi thuần tâm lý
mang tính chủ quan, trong khi đó, chính Husserl đã phê phán điều này ở
Descartes, và phát triển cái Tôi suy tưởng
của ông lên mức cao hơn của Tôi-tiên nghiệm,
đạt tới cảnh giới cao nhất trong việc thông hiểu bản chất hiện tượng.
Trước
1975, ở miền nam Việt Nam có hai công trình biên khảo về triết học Hiện tượng
luận, một của Trần Thái Đỉnh và một của Lê Thành Trị, tuy nhiên như đã nói, hai
công trình này chỉ mang tính chất diễn giải, dọn chỗ cho sự dẫn nhập chứ chưa
thực sự là một công trình nghiên cứu đúng nghĩa. Trần Thái Đỉnh với cuốn Hiện tượng học là gì? (Hướng Mới xuất bản
1968) là sự diễn giải 16 trang dẫn nhập cuốn Phenomenology of Perception (Hiện
tượng luận về Tri giác) của Maurice Merleau Ponty, trong đó nhấn mạnh chủ yếu
vào lập trường Hiện tượng học cùng những quan điểm của nó. Lê Thành Trị với Hiện tượng luận về hiện sinh là một công
trình biên khảo về Chủ nghĩa hiện sinh nhưng dưới góc nhìn Hiện tượng luận, chứ
không phải là công trình thuần biên khảo về Hiện tượng luận.
Năm
2011, NXB Chính trị quốc gia có cho ấn hành chuyên khảo của Nguyễn Trọng Nghĩa
về Hiện tượng luận mang tên Hiện tượng học
của Edmund Husserl và sự hiện diện của nó ở Việt Nam. Theo tôi, đây là công
trình diễn giải lại 2 cuốn sách chính của Husserl là Ideas và Logical
Investigations, cùng cuốn của Trần Đức Thảo, cho nên việc hiểu sai Husserl
là điều không tránh khỏi. Đóng góp lớn nhất của cuốn biên khảo này là giới thiệu
một cách dễ hiểu những vấn đề căn cốt của Hiện tượng luận tiên nghiệm mà
Husserl đã tạo dựng và gây ảnh hưởng suốt hai thế kỷ XX - XXI.
Ngoài
3 công trình trên, cuốn biên khảo triết học có “tính cách” Hiện tượng luận, mà đúng hơn là tác phẩm phê phán tư tưởng
Sartre nhìn từ Heidegger của Tam Ích có tên Sartre
và Heidegger trên thảm xanh (Hồng Đức xuất bản 1969) có thể xem là cuốn
sách đáng đọc. Tam Ích, người đã ướm bàn chân triết văn của mình vào bên trong
dấu chân của Sartre, cho nên, cuộc đời ý thức ý hướng nơi ông cũng giống Sartre
– “Anh hùng nạn nhân của ý thức khốn khổ” (André Niel). Song, chính Sartre và Heidegger trên thảm xanh đã “định luận” giá trị nơi con
người ông, đặt ông vào thảm xanh của triết lý, tư tưởng và văn học. Tác phẩm là
văn bản phê phán tư tưởng Sartre, đặc biệt là tinh thần nệ Pour Soi của ông.
Tác giả cuốn sách đã đặt Sartre bên cạnh Heidegger, mà đúng hơn là đặt cái Être
của Sartre bên cạnh cái Sein của Heidegger, đặt bản thể luận Pour Soi của
Sartre bên cạnh Dasein của Heidegger. Từ đó để thấy, hành trình ý thức nơi
Sartre là hành trình của “những thất bại”, hành trình của những đuổi bám phi giới
hạn, của ý thức vượt thoát. Ý thức đó nơi Sartre luôn vượt thoát khỏi Sartre,
nhưng cũng chính nó đẩy Sartre vào bi kịch của ý thức tự quy. Đặt Sartre bên cạnh
Heidegger, với Tam Ích là một “ý đồ” rất rõ ràng. Tuy cùng trên thảm xanh của
triết lý sự sống, nhưng người dắt bóng triết học lên tấm thảm vinh quang ấy
chính là Heidegger, mà nói đúng ra, Heidegger đã “ẵm bế” “dẫn dắt” tư tưởng của
Sartre lên thảm xanh. Cái bóng vinh quang của triết học thảm xanh ấy đổ từ trên
đỉnh đầu Heidegger xuống bàn chân “giao động” nơi Sartre. “Vụ án” triết học Heidegger chính là phần Tam Ích dùng để “soạn diễn
từ tưởng niệm” số phận “triết lý” Heidegger, chính thức quàng lên “vai” người
khổng lồ về tri thức ấy vòng nguyện quế được đan cài từ muôn “lời vàng tiếng ngọc”.
Đó là tác phẩm lớn đáng đọc nhất của Tam Ích.
Ngoài
công trình lớn của Tam Ích, có thể kể đến một số tác giả, tác phẩm biên khảo
triết học có “tính cách” Hiện tượng
luận như Trần Thái Đỉnh với Triết học hiện
sinh (Thời Mới in năm 1967), Lê
Tôn Nghiêm với Đâu
là căn nguyên tư tưởng? hay con đường triết lý từ Kant đến Heidegger
(Trình Bày ấn hành năm 1970), Heidegger trước sự phá sản của tư
tưởng Tây phương (Lá Bối ấn hành năm 1970), Những vấn đề triết học hiện đại (Ra Khơi ấn hành năm 1971), Nghiêm
Xuân Hồng với Đi tìm một căn bản tư tưởng
(Giao Điểm ấn hành năm 1967), Nguyên tử hiên sinh và hư vô(Hoàng Đông
Phương ấn hành năm 1969), Ngô Trọng Anh với Đường
trở về (Ca Dao ấn hành năm 1973), đặc
biệt là Phạm Công Thiện với Im lặng hố thẳm
(An Tiêm ấn hành năm 1967), Ý thức bùng vỡ (Đồng Nai ấn hành năm 1971), Hố Thẳm tư tưởng (Phạm Hoàng ấn hành
năm 1970)…
Hiện
tượng luận trong triết học ở Việt Nam còn được các tác giả nghiên cứu bàn luận
trong các số của Tập san Tư tưởng, do
Viện Đại học Vạn Hạnh ấn hành suốt từ 1968 trở đi, đặc biệt là trong các số 1,
2, 3, 6 với các tác giả như: Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Ngô Trọng Anh, Phạm
Công Thiện, Trần Công Tiến…Tuy Hiện tượng luận đã xuất hiện khá sớm ở Việt Nam,
nhưng sự hiện diện của nó chưa đủ và chưa có hệ thống cho một sự hiểu xuyên suốt.
Ngoài ra, trong một số sách giới thiệu các tư tưởng hiện đại, Hiện tượng luận
được đề cập cũng chỉ với tính chất dẫn nhập như Nguyễn Hào Hải với Một số học thuyết triết học phương Tây hiện
đại, Phạm Minh Lăng với Mấy trào lưu
triết học phương Tây …
Trong
văn học, Hiện tượng luận xuất hiện chủ yếu ở lĩnh vực phê bình, khảo cứu với
vai trò một phương pháp.
Trước
1975, Lê Tuyên được xem là người “nổ phát súng” tiên phong cho phương pháp phê
bình Hiện tượng luận trong văn học. Qua hai công trình Chinh
phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đày (do Đại học Huế ấn hành 1961) và Nguyễn Bỉnh Khiêm và thảm trạng trí thức trong thân phận làm người,
Lê Tuyên đã đặt nền tảng cho phê bình hiện tượng luận văn học ở Việt Nam, qua
cái nhìn mơ mộng được phóng xuất ý hướng tính về đối tượng. Trong Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ
lưu đày, qua “cái nhìn về cuộc đời”, “cái nhìn vào số phận” với “không gian
và hiện hữu lưu đày” “không gian mơ về từ mộng”, “không gian và hiện thực li
bôi”, “không gian và chủ thể yêu thương”, Lê Tuyên giải mã nguyên nhân tấm thảm
trạng bi kịch lưu đầy trong tâm thức của người Chinh Phụ. Nàng đã ném cái nhìn
định kiến chủ quan về phía người chồng đang biền biệt chốn biên cương. Bi kịch
của nàng là bi kịch của cấp nghĩa và cho nghĩa, nhưng không phải bằng quá trình
hoàn nguyên tiên nghiệm sau khi đã quy giản bản thân, mà là cái nhìn phóng
chiếu theo sự mơ về hình ảnh của
người chồng sẽ trở về trong tâm thế “mũ mão cân đai đề huề”.
Nàng đã đem cái nhìn mơ mộng về sự
xuất hiện của người chồng lý tưởng nhằm hướng tới, phóng xuất về phía hình ảnh
người chồng đang biệt xứ. Đến khi nhận ra sự thực, chính người chồng lí tưởng
ấy đã “bóp méo” ý thức tiên nghiệm mà nàng hướng về chồng mình. Chính khát vọng
cuộc sống hạnh phúc đã trở thành “thiết chế thông tin” vây hãm, lấn át, che mờ
con người thực, con người hoàn nguyên hiện tượng luận nơi nàng. Khi nhận ra thì
mọi sự đã rồi, người ra đi kẻ ở lại, ánh trăng trên đầu không soi tỏ nỗi lòng
se thắt, quặn đau của tâm thức lưu đầy tuyệt vọng ấy. Trong số những cuốn phê
bình về Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần
Côn, đây là cuốn đáng đọc nhất. Từng lời, từng chữ như phóng chiếu, xuất thể
những tinh anh và tâm thức mơ mộng. Chủ thể tính muốn vượt thoát hoàn cảnh,
nhưng đời không cho vượt thoát, quy hồi nội giới để ẩn mình, sống trong cảnh
lưu vong tinh thần. Người Chinh Phụ, cũng như tác giả của cuốn Chinh phụ ngâm và tâm thức lãng mạn của kẻ
lưu đày nhiều lúc đã vượt biên tinh thần để trốn thoát đau khổ, nhưng vượt
qua lằn ranh tinh thần này thì lại vướng vào sự tuyệt vọng của lằn ranh tinh
thần khác. Cả đời chỉ đuổi bắt những mộng mơ cô độc không dứt.
Các
tác giả như Nguyên Sa, Nguyễn Văn Trung, Đặng Phùng Quân, Huỳnh Phan Anh là những
nhà văn kiêm nhà phê bình nhà nghiên cứu triết học, đã đưa Hiện tượng luận vào
văn học trong vai trò lược khảo, nhận định, dẫn nhập những yếu tố có ảnh hưởng
trực tiếp tới đời sống văn học, cần phải khai thác. Nguyên Sa (Trần Bích Lan)
trong cuốn Quan điểm văn học và triết học
đã dành hai mục lớn ở phần 1 để giới thiệu về Hiện tượng luận trong sáng tạo và
phê bình văn học. Nguyễn Văn Trung đã cụ thể hoá Hiện tượng luận tri giác của
Merleau Ponty trong bộ đôi quan trọng của ông là Ngôn ngữ và Thân xác, Ca tụng thân xác. Ngoài ra, Nguyễn Văn Trung
cũng bàn rải rác trong bộ Nhận Định 6 tập của ông (đặc biệt là trong các tập I,
II, III và VI). Đặng Phùng Quân thì dành hai phần lớn trong ba phần của cuốn
sách Triết học và văn chương để chỉ
bàn về văn học dưới cái nhìn Hiện tượng luận của Merleau Ponty như các mục “Văn
tự và siêu hình học”, “Đọc/ Viết”, “Bản văn”, “Ngợi ca viết”…Huỳnh Phan Anh
trong Đi tìm tác phẩm văn chương dành
hẳn một phần lớn, quan trọng để bàn về cái nhìn Hiện tượng luận trong văn học,
với các mục “Hành trình tác phẩm”, “Ám ảnh của tác phẩm”, “Phê bình và chống
phê bình”…Và, còn nhiều tác giả khác bàn luận trong các tạp chí đặc chuyên về
văn học.
Sau
1975, Việc giới thiệu hiện tượng luận trong văn học không phổ biến, nó chỉ nằm
trong các sách biên khảo về lý thuyết văn học có tính chất phác thảo, giới thuyết
chứ không chuyên sâu. Phương Lựu trong cuốn Mười
trường phái phê bình văn học phương Tây đương đại đã dành một mục để giới
thuyết về Hiện tượng luận từ triết học tới mỹ học và phê bình văn học. Phạm Văn
Sĩ trong Về tư tưởng và Văn học phương
Tây hiện đại cũng đã để một mục bàn về Hiện tượng luận của Husserl, khi tác
giả nhấn mạnh tới thân phận con người trong văn học. Đặc biệt, trong cuốn Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, Đỗ
Đức Hiểu dành một phần lớn để phê
phán hiện tượng luận của Husserl và Sartre. Có thể nói, phần I của cuốn sách là
sự thất bại của Đỗ Đức Hiểu khi đánh giá về các tư tưởng Hiện sinh và Hiện tượng
luận, cuốn sách do vậy đã suy sút nhiều so với ý tưởng ban đầu của nó.
Từ
năm 2000 trở lại đây, các công trình nghiên cứu lý thuyết của Husserl trong văn
học cũng không phổ biến. Trong đó, có thể nói công trình Tác phẩm văn học như là quá trình của Trương Đăng Dung là chuyên luận
“hiếm” trong nền/hệ thống lý luận văn học ở Việt Nam. Được đào tạo bài bản
trong tinh thần hiện tượng luận ở phương Tây, lại trực tiếp nghiên cứu chuyên
sâu, Trương Đăng Dung có những đánh giá hợp lý về bản chất văn học cũng như những
giới hạn của nó. Văn học giờ đây không phải/ không nên là tấm gương tự nhiên, mà là tấm
gương của thế giới tinh thần, phản ánh trung thực thế giới ý niệm mà chủ thể
thẩm mỹ có được khi hướng về đối tượng. Thành công của công trình là điều cần
ghi nhận.
Với
lời đề dẫn vào căn bản Hiện tượng luận (Introduction to phenomenological basic)
ở trên, chúng ta phần nào thấy được tính cấp thiết của đề tài. Vì vậy, nghiên cứu
Hiện tượng luận về văn học, chúng tôi
làm công việc kép của nhà nghiên cứu, giới thiệu những vấn đề căn cốt của Hiện
tượng luận ở vai trò triết học, đồng thời hướng cái nhìn cụ thể ấy vào một hiện
tượng cụ thể trong thế giới hiện tượng là: Văn học. Do đó, đề án này không phải
là sự ứng dụng lý thuyết Hiện tượng luận vào văn học, đúng hơn là, nuôi tham vọng
phát triển một nhánh độc lập Hiện tượng
luận về văn học trong hệ thống Hiện tượng luận. Như vậy, đây không chỉ đơn
thuần là ý hướng thuần túy lý luận văn học, mà, ý hướng ấy còn là triết luận
văn học trong tinh thần Hiện tượng luận, điều này sẽ giúp chúng ta tránh khỏi sự
nhập nhằng trong quan điểm cũng như vướng víu vào sự độc đoán của lý thuyết, điều
mà đương thời, Husserl ra sức phản đối. Hiện
tượng luận về văn học sẽ đem đến cách nhìn đúng đắn về bản chất của khoa học
nhân văn và lý thuyết văn học, nó tiếp nhận bình đẳng các quan niệm, các ý kiến
trái chiều trong diễn giải.
(Bài đã đăng trên TC Nhật Lệ tháng 05/2013)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét