Ngô Hương Giang
Khởi từ suối nguồn tinh hoa Khổng học Trung Quốc, Nho
Giáo đã rẽ nhánh đẻ dòng mạnh mẽ sang các nước đồng văn, đồng thời không ngừng
gây ảnh hưởng tới tiến trình phát triển tư tưởng của các dân tộc đó. Quá trình
du nhập và tiếp biến của Nho giáo trong tư tưởng, văn hóa Việt Nam gắn liền với
những biến động, vặn mình của lịch sử dân tộc. Trong những giai đoạn biến thiên
của lịch sử dân tộc, Nho giáo đã được “dân tộc hóa” và “hiện đại hóa” nhờ vào
đội ngũ trí thức yêu nước. Theo đó, vận mệnh của Nho giáo Việt Nam luôn gắn
liền với quá trình thực hiện trách nhiệm của Nho sĩ đối với hiện trạng đất
nước. Đó là quá trình mà độ kênh giữa hai cặp phạm trù “Trung tâm – ngoại vi”,
giữa “Trung Hoa và các nước chịu ảnh hưởng của nó” không tác động trực tiếp đối
với bản chất tư tưởng đặc thù quốc gia – dân tộc.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam cận, hiện đại được xem là sự
“chuyển dạ” nhiều đau đớn trong cơn biến động của thời đại, giằng co giữa cái
cũ và cái mới, giữa đạo đức thánh hiền với sự gia nhập bất khả cưỡng của văn
hóa phương Tây, của đạo Cơ Đốc theo chân người Pháp xâm chiếm dân tộc. Thái độ
trí thức của tầng lớp Nho sĩ trong hoàn cảnh ấy đã đẩy Nho giáo vào quá trình
hiện đại hóa tư tưởng mang màu sắc dân tộc. Việc canh tân Nho giáo, mà nói rộng
ra là canh tân tư tưởng Việt Nam giai đoạn này gắn liền với sự canh tân một
cách toàn diện về mặt văn hóa của đội ngũ trí thức.
1. Từ khủng hoảng của nền giáo dục Khổng học đến ý niệm một nền quốc học tân thư
Cuối thể kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt là giai đoạn 1862
đến 1907, nền giáo dục cựu truyền, theo phương thức trường quy đã bộc lỗ những
rạn nứt, báo trước cuộc khủng hoảng kéo dài. Những nỗ lực củng cố bộ máy chuyên
quyền Phong Kiến nhà Nguyễn, đã đẩy hệ thống giáo dục Nho học vào hình thức của
lối học thực dụng, nhằm xác lập vòng tròn biểu hiện mối quan hệ: kiến thức –
quyền lực. Giáo dục trường quy trong bộ máy chính trị chuyên quyền không nhằm
củng cố tinh thần phản biện xã hội hoặc tu dưỡng đạo đức, mà việc học của đại
bộ phận nho sĩ bấy giờ nhằm thực hiện mục đích được bổ nhiệm vào các vị trí
công chức. Mặt khác, trên thực tế, thời điểm bấy giờ, với sự xâm chiếm của thực
dân Pháp đã kéo theo sự du nhập của văn minh, giáo dục phương Tây vào nước, trở
thành đối trọng của Nho giáo sau hơn một nghìn năm tồn tại. Chính tình cảnh ấy
đã đẩy trí thức vào sự lựa chọn giữa việc phá bỏ và bảo lưu tư tưởng Nho giáo
cựu truyền, manh nha một cuộc “thuyên chuyển” tư tưởng sâu rộng trong xã hội.
Sự yếu hèn của giai cấp lãnh đạo Phong Kiến đã chứng minh sự suy yếu của hệ
thống chính trị chuyên chế Thiên Mệnh,
thêm vào đó là sự can thiệp ngày càng sâu của đạo Cơ Đốc, đã dẫn đến quyết định
tìm về chủ nghĩa dân tộc của tầng lớp nho sĩ.
Đứng trên lập trường dân tộc, đặc biệt phải chứng kiến
cảnh yếu hèn của một bộ phận nho sĩ làm tay sai cho thực dân Pháp, tầng lớp nho
sĩ yêu nước (từ đây trở đi gọi là kẻ sĩ) đã nhìn thẳng vào sự thất bại của
mình. Chúng ta có thể thấy ý thức phản biện đó trong các phê phán của Phan Bội
Châu, rằng: “Than ôi, Nho sĩ, Người cho rằng mình là gương sáng cho dân chúng
bởi sự khôn ngoan, bởi đức độ, bởi sự mẫu mực, ai dám nghĩ rằng giờ đây Người
lại phải cải trang để phục vụ kẻ thù, lại không do dự khi gây ra những tội ác
dã man nhất …Trong khi chính quyền thực dân ra sức làm cạn kiệt mọi quốc túy của nền văn hóa chúng ta, chỉ
để lại những vỏ khoa bảng bề ngoài mang tính lừa dối, chúng ta lại ngậm chặt
miếng mồi thảm hại đó, bằng lòng với những thành phần nghèo nàn đó mà kẻ thù
đem ra để nhử chúng ta, để biến chúng ta trở thành những con chó săn để lột da
và giam hãm dân chúng mình…mà quên đi rằng cuộc săn kết thúc chúng sẽ quay trở
lại tấn công chúng ta …Không có dân tộc nào còn tồn tại nếu như mất nước . Vậy
các ngươi còn dám mơ đến danh vọng như thế nào khi mà kẻ thù luôn coi khinh và
giám sát?...Tiến sĩ, cử nhân, Tú tài, đó là chừng ấy thanh danh hão huyền làm
chúng ta bước lạc đường khỏi bổn phận thiêng liêng. Trong một vài thập kỷ tới,
liệu những danh vị không đáng kể đó còn lại những gì khi con cháu chúng ta bị
hủy diệt”([1]).
Trước tình cảnh ấy, những giáo lý của nền giáo dục khoa bảng cũ không thể phù
hợp với thực tiễn đổi mới nhận thức trí sĩ, đưa đến cuộc “cải tổ” toàn diện về
tư tưởng. Quá trình chuyển biến từ tư tưởng Nho giáo cựu truyền sang tư tưởng
Nho giáo hiện đại mang màu sắc Việt Nam, đã thôi thúc ý thức tìm về dân tộc của các trí thức nho sĩ.
Sự ra đời của các tổ chức yêu nước, muốn khôi phục lại những giá trị nguyên
thủy của đạo đức Khổng học trên nền tảng văn hóa dân tộc đã khoác cho Nho giáo
một diện mạo mới. Những khía cạnh đạo đức mà Nho giáo từng gây ảnh hưởng trong
trường kỳ lịch sử dân tộc được giữ lại, thêm vào đó là sự đoạn tuyệt dứt khoát
đối với các luận đề mang tính cách “bá hùng” và “quan phương” của bộ máy hành
chính Phong Kiến theo kiểu Nho giáo, đã mở ra một giai đoạn mới cho tư tưởng
dân tộc.
Về đại thể, trong bối cảnh lịch sử giai đoạn cận, hiện
đại Việt Nam tồn tại hai loại hình trí
thức song song: một bên là tầng lớp Nho sĩ yêu nước và một bên là tầng lớp
trí thức Tây học. Cuộc tranh đấu giữa lập trường tư tưởng hai loại hình trí
thức này, có thể xem vừa nhằm mục đích “thanh lọc”,
vừa mang sắc thái “bổ khuyết” lẫn nhau, đưa đến sự đổi thay toàn diện từ đầu
những năm 1920 cho đến cuối 1944, hoàn tất quá trình hiện đại hóa văn hóa – tư
tưởng dân tộc. Theo đó, trách nhiệm Nho giáo của nho sĩ giai đoạn này gắn liền
với nỗ lực canh tân chung về văn hóa dân tộc của tầng lớp trí thức. Chỉ khi
đứng trên lập trường dân tộc, chúng ta mới thấy hết nỗ lực thay đổi đó.
Nhu cầu về sự thay đổi phương pháp giáo dục gắn liền với
quá trình chấn hưng văn hóa dân tộc, tất yếu sẽ kéo theo những thay đổi toàn
diện về ngôn ngữ, nội dung giáo dục, cơ cấu tổ chức…Những thành tựu từ công
cuôc canh tân văn hóa của Lương Khải Siêu ở Trung Quốc và cách mạng Minh Trị
ở Nhật Bản cũng đã theo chân các sĩ phu
phổ biến rộng rãi trong nước. Trong đó nhu cầu trước hết là canh tân về giáo
dục, đổi mới nội dung sách giáo khoa tại các trường quốc học. Sự ra đời của Thời vụ sách([2])
do Nguyễn Lộ Trạch (1853 -1895) viết và Văn
minh tân học sách([3])
do phong trào duy tân khởi xướng mà tiêu biểu là Đông kinh nghĩa thục, có thể
xem là trung tâm của mọi nỗ lực canh tân tư tưởng dân tộc của tầng lớp trí thức
giai đoạn cận, hiện đại. Nó biểu hiện cao nhất trách nhiệm nho sĩ trước thời
cuộc.
2. Từ Thời vụ sách tới Văn minh tân học sách: Những thắng lợi bước đầu của quá trình hiện đại hóa tư tưởng Nho giáo mang màu sắc Việt Nam.
Khác với Nguyễn Trường Tộ (1828 – 1871) luôn xem “người
sáng suốt không nhìn lại phía sau, mà trước hết là cần quan tâm đến tương lai”([4]),
và coi việc chống lại cơ cấu xã hội truyền thống là cách thức ngắn nhất
để “hiện đại hóa các thiết chế”, thì Nguyễn Lộ Trạch ngược lại, ông không lấy
việc chỉ trích các thiết chế xã hội cũ như mục đích chính yếu để tiến tới cái
mới. Quan điểm của Nguyễn Lộ Trạch, như diễn giải của GS. Trịnh Văn Thảo trong Le Vietnam du confucianisme au communisme:
Un essai d’itinnéraire intellectuel (Việt
Nam: Từ Khổng giáo tới Chủ nghĩa cộng sản: Một khảo luận về hành trình người trí
thức) là vì “ đối với ông, nếu hệ thống đó sai lầm trong phương hướng và
trong cách tổ chức cuộc kháng chiến, thì nó cũng đã chứng tỏ được sự gắn bó
vĩnh viễn với sự nghiệp quân chủ. Trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng cũng như
trong thất bại, tầng lớp trí thức đã biết chứng tỏ sức mạnh tinh thần của mình.
Vượt lên trên kết quả hành động của họ, đó chính là cách sống và cách chết của
những con người này đã làm tăng thêm sự kính trọng và đem lại niềm hy vọng”([5]).
Theo đó, đối lập với Nguyễn Trường Tộ tìm đường hiện đại hóa tư tưởng cho dân
tộc bằng việc gia nhập vào đạo Cơ Đốc và học tập văn minh Pháp, đồng thời đưa
văn minh Pháp vào nước để chống lại/ thay thế toàn diện thể chế cũ, thì Nguyễn
Lộ Trạch đi tìm sự canh tân tư tưởng dân tộc bằng việc học tập cuộc cải cách
Minh Trị từng làm nên cách mạng cho Nhật Bản. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa việc
tìm đường đến với cải cách Minh Trị của Nguyễn Lộ Trạch so với Phan Bội Châu
nằm ở chỗ, ông không xem Nhật Bản với cải cách Minh Trị là chân lý tuyệt đối,
và cũng không xem Nhật Bản là “người anh lớn” của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, ở
Nguyễn Lộ Trạch có sự lựa chọn rạch ròi giữa một bên là các yếu tố kế thừa từ
sự thắng lợi trong cải cách Minh Trị và một bên là gạt bỏ mầm mống xâm lăng của
một thứ chủ nghĩa đế quốc về chính trị - văn hóa. Trên tinh thần ấy, Thời vụ sách ra đời là kết quả của sự
học tập, kế thừa và lựa chọn một cách tỉnh táo những thành tựu tích cực từ cuộc
cách mạng ấy.
Qua thời vụ sách, Nguyễn Lộ Trạch
đã dẫn nhập một cách cơ bản con đường cải tổ toàn diện mà Việt Nam cần đi,
trong đó, cụ thể:
- Về chính trị: Từ việc xác định kẻ thù chính của dân tộc
Việt Nam là thực dân Pháp, với những đánh giá khách quan, công bằng về lực lượng
và thái độ tham chiến: “Nước Pháp là một cường quốc quân sự đáng nể, có khả năng
cắt cử đội quân giao chiến ở xa nước mình, biến mình từ địa vị nước ngoài thành
chủ nhà…Tấn công Việt Nam, nước Pháp không tuân theo chiến lược xâm nhập đã bắt
đầu từ rất lâu thông qua trung gian là những hội truyền giáo và buôn bán nha
phiến. Nước Pháp chắc chắn không hài lòng với chút đỉnh đất đai cắt xén vùng
Nam Kỳ…Hôm nay, nước Pháp bằng lòng yêu cầu tiền bồi thường chiến tranh, ngày
mai yêu cầu miễn thuế trong các lãnh hải và cảng biển nước ta; chỉ một từ chối
nhỏ nhất, lại gây nên duyên cớ để nước Pháp phát động chiến sự mới”([6]), Nguyễn Lộ Trạch đề xuất: “Cầm quyền, chính là dự kiến…Ngày
nay chúng ta thấy rất rõ những kẻ khích động đến từ đâu nhưng những người cứu nạn,
lại không thấy nơi nào! Sự thất bại của Việt Nam liên quan đến trình độ chính
trị, bởi sự thất bại đó bắt nguồn từ việc không có khả năng nắm bắt sự hòa hoãn
bị các đế vương bỏ lỡ để vững mạnh lên, để cải tổ và trấn anh thách thức”([7]) và cũng vì “sức mạnh hay sự kém cỏi của một quốc gia
không phụ thuộc vào kích thước (lớn, nhỏ), mà phụ thuộc vào học thuyết chính trị
sáng lập, Chính giáo”([8]).
- Về quân sự: Nguyễn Lộ Trạch cho rằng, “Trong khi chờ đợi
ngày này, cần phải tiến hành với nghị lực hiện đại hóa hoàn toàn quân đội, vũ
khí, các quan điểm chiến thuật và sách lược, cần phải làm cho nghệ thuật quân sự
của chúng ta như nghệ thuật quân sự hiện nay do người phương Tây sáng chế”([9]).
- Về kinh tế: Thời vụ
sách chỉ ra: cần “làm giàu đất nước bằng cách mở rộng chính sách đồn điền
và cải tổ thương lại”([10])
- Về giáo dục: Bên cạnh tinh thần canh tân triệt để về các
mặt của đời sống xã hội, thì việc canh tân, cải tổ giáo dục, thi cử là điểm
đáng quan tâm nhất của Nguyễn Lộ Trạch. Tư duy về chiến lược giáo dục của ông
có thể xem là nền tảng của tư duy giáo dục hiện đại, quốc tế: “Thường thường mọi
người khó chấp nhận ý nghĩ rời bỏ quê hương xứ sở. Hơn nữa, khi mục đích của cuộc
hành trình là nghiên cứu khoa học cơ khí, có nghĩa là các môn học mà cho đến
bây giờ chúng ta có thói quen coi thường. Do vậy, những người ưu tú lại từ chối
bỏ xứ sở ra nước ngoài để học các nghệ thuật chế biến, còn những người chấp nhận
thì thông thường lại không hiểu biết và thiếu các khái niệm cần thiết để đồng
hóa những môn học đó. Cứ như thể, người ta gửi những người điếc đi học nhạc và
những người mù học lái xe ô tô. Sử dụng máy móc phương Tây, để làm chủ được
công nghệ đó, đòi hỏi vốn kiến thức nghiêm túc về toán học. Gửi những người kém
cỏi đi học các nghề đó là lãng phí tiền bạc và phơi bày toàn bộ đất nước cho
người khác chê cười”([11]).
Việc đổi mới văn hóa – tư tưởng Việt Nam, dù cho lịch sử
có những đánh giá khác nhau, thậm chí là trái ngược, thì bước tiến quan trọng
trong tinh thần trí thức của tầng lớp nho sĩ như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…đã mở ra hướng đi quan trọng, để sau đó Đông
kinh nghĩa thục cùng các thế hệ kế tiếp hoàn tất rực rỡ cuộc canh tân toàn diện
tư tưởng dân tộc.
Sự ra đời của phong trào Duy tân gắn liền với tác phẩm
được xem là tuyên ngôn của nhóm: Văn minh
tân học sách. Đây là tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất tới quá trình hiện đại
hóa văn hóa – tư tưởng Việt Nam thời kỳ chuyển giao cận – hiện đại, và là cuốn
cẩm nang gối đầu giường của các nho sĩ, trí thức về sau. Cuốn sách là sự “chắt
lọc” tinh hoa văn minh Tây phương do tập thể sĩ phu, nho sĩ yêu nước tập hợp và
xuất bản. Nó thể hiện tinh thần tự chủ, ý thức trách nhiệm đổi mới dân tôc, mà trước hết là đổi mới tư duy nhằm mục đích "Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh"
(Phan Chu Trinh) của tầng lớp nho sĩ, trí thức. Văn minh tân học sách cũng là tác phẩm tiên phong cho phong trào sử
dụng chữ quốc ngữ, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa triệt để chữ viết dân
tộc, chính thức rũ bỏ sự nô lệ về mặt văn tự Hán hóa suốt nghìn năm([12]).
Văn
minh tân học sách đã bắt đầu
bằng việc chỉ ra “4 liệt điểm” của tư tưởng Nho giáo cựu truyền (Traditional Confucianism), làm ngưng trệ sự phát
triển xã hội đối với các dân tộc sử dụng nó vào mục đích duy trì thể chính trị:
“Thứ nhất, tư tưởng xem dân tộc mình là trung tâm đã làm chúng ta xem thường
nghệ thuật và khoa học của các nước khác. Thứ hai, tư tưởng trọng Vương khinh
bá khiến chúng ta phớt lờ những phương pháp, cách thức giáo dục mà nhờ chúng
các quốc gia khác trở nên mạnh mẽ và hoàn hảo. Thứ ba, định kiến cho rằng “Cổ
nhân luôn luôn đúng” làm chúng ta bỏ qua những sáng kiến và đề xuất của thời
đại. Cuối cùng, tư tưởng Trọng quan khinh dân làm chúng ta mất đi ý nghĩa thực
tiễn về nhân dân”([13]).
Cùng với việc phê phán tư tưởng Nho giáo thủ cựu, tác giả
của Văn minh tân học sách đưa ra sáu
con đường cải cách về giáo dục, thi cử, quốc văn giáo khoa, kinh tế…Trong đó,
đáng chú ý là tư tưởng cải cách về giáo dục, về sự hậu đãi với nhân tài, về
kinh tế thương nghiệp và đặc biệt là phát triển báo chí trong nước.
- Về giáo dục: Văn
minh tân học sách xem việc sử dụng chữ quốc ngữ làm văn tự chính trong giảng
huấn là vấn đề cấp thiết và sống còn của quốc gia, là tôn vinh “quốc hồn và quốc
túy” (Phạm Quỳnh) dân tộc. Bên cạnh đó, các tài liệu giáo khoa được sử dụng vào
việc giảng dạy cần được hiệu đính lại, đặc biệt là sách sử; tiếp tục sử dụng những
bộ sách có giá trị của đạo Khổng làm tài liệu học tập như Hiếu kinh, Trung kinh, Tiểu học … Những tác phẩm ấy cần được dịch
ra chữ quốc ngữ, quảng bá rộng rãi trong học đường.
- Về thi cử và chế độ hậu đãi với nhân tài: Văn minh tân học sách đề nghị bỏ lối
hành văn biền ngẫu, cùng những luật lệ khắc nghiệt của trường quy cũ, thay vào
đó, đưa văn nghị luận quốc ngữ và toán học
vào hệ thống thi cử. Điểm đáng lưu ý nhất của Văn minh tân học sách là vấn đề tự do trong trao đổi học thuật: “cần
thiết phải khuyến khích tinh thần thảo luận tự do của học sinh”([14]), được xem là những tư tưởng tiến bộ, có ảnh hưởng đến
nay, khi mà hệ thống giáo dục hiện đại từng ngày, từng giờ không ngừng nỗ lực
thực hiện quyền cơ bản ấy. Về việc hậu đãi đối với nhân tài, Văn minh tân học sách chỉ rõ, đối với những
sinh viên đã tốt nghiệp thì cần thiết phải được kinh qua thực tiễn trải nghiệm
trong các ngành, các viện nghiên cứu để chứng minh thực tài, đồng thời đưa những
học sinh “không được học chữ Tây” vào các trường Pháp – Việt để tự rèn luyện, rồi
tổ chức sát hạch. Có thể xem đây là những tư tưởng cách mạng gắn liền với ý thức
dân tộc sâu sắc, góp phần làm giảm tính chất mô phạm trường quy của nền khoa cử
Khổng học cựu truyền.
- Về kinh tế: Tác phẩm xem việc đẩy mạnh nền kinh tế thương
nghiệp là con đường chính yếu đưa nền kinh tế dân tộc phát triển, thông qua sự
giàu mạnh và tiến bộ của kỹ nghệ([15]).
- Về báo chí: Để khai dân trí, những nho sĩ, trí thức biên
soạn Văn minh tân học sách xem việc
phát triển một nền báo chí hiện đại, với các chủ bút có học vấn uyên bác, giỏi
ngoại ngữ là nền tảng để xây dựng trí tuệ dân tộc. Nhờ quan điểm tiến bộ này,
cùng với thực tiễn hiện thời, mà Việt Nam đã phát triển một cách có hệ thống và
từng bước hiện đại hóa báo chí quốc ngữ, đồng thời mở rộng ảnh hưởng của nó về
sau.
Với sự ra đời của Thời vụ sách và Văn minh tân học sách, các nhà nho, trí thức đứng trên lập trường
đạo đức Khổng học, kết hợp với tinh thần canh tân dân tộc mạnh mẽ tạo ra những
rẽ ngoặt quyết định đối với tư tưởng Việt Nam, từng bước hiện đại hóa toàn diện
nền văn hóa dân tộc. Dù rằng, với Văn
minh tân học sách tính chất bất cập, đôi khi thái quá trong khi học tập gấp
rút giá trị văn minh Âu Tây, đặc biệt là văn minh Pháp trong việc giải quyết
các vấn đề về “quan hệ giữa chính trị và học thuật” hay là một nền “học thuật
phục vụ nhân dân” phải là nền học thuật như thế nào?, đã làm cho tác phẩm thiếu
tính luận chứng, khoa học. Song về cơ bản, nó đáp ứng nhu cầu tất yếu của lịch
sử là khai trí và canh tân văn hóa
quốc gia. Các trí thức, nho sĩ đã biết lấy vận mệnh dân tộc làm “trung tâm tư
tưởng” để khai minh và chấn hưng quốc túy, quốc hồn, bỏ trong ngoặc đơn nhận
thức những ảnh hưởng o bế, cứng nhắc của Nho giáo cự truyền trên một số bình
diện, nhất là trong giáo dục khoa cử, trong việc hoạch định cơ cấu xã hội.
Cũng chính trong
tình thế “lưỡng thê” của hai luồng tư tưởng Nho học và Tây học đã sản sinh loại
hình nhà nho mới, ảnh hưởng quyết định tới sự cải tổ hệ thống phân cấp trí thức
nho học mang sắc thái văn hóa Việt Nam: đó
là sự ra đời củaloại hình nhà nho tài tử bên cạnh loại hình nhà nho hành đạo và
ẩn dật. Có thể nói, sự ra đời của lớp nhà nho tài tử này, Nho giáo đã từng
bước được cải chính và cải tổ triệt để ở Việt Nam, biểu hiện rõ nhất trong văn
hóa – văn học. Từ đây trở đi, Tây học theo chân các trí sĩ vào nước kết hợp với
công cuộc “cải tổ” Nho giáo đã đưa đến cuộc cách mạng tư tưởng Việt Nam: Khổng học sau nghìn năm kinh qua nơi trường
quan, đã lặng lẽ hòa vào tâm thức văn hóa quần chúng, giữ lại những giá trị
tích cực giúp con người tu dưỡng tinh thần, rèn luyện trí lực trước sóng gió
thời cuộc. Để rồi, sau những cuộc binh biến, chí khí sắt thép của đạo Khổng cộng với tinh thần
Nhân nghĩa của người Việt lại được lớp trí thức mới vận dụng linh hoạt vào
thực tiễn, góp phần củng cố vững chắc sự nghiệp “Chấn dân khí” và “Hậu dân
sinh” cho dân tộc.
3. Trường hợp Phạm Quỳnh
Khác với Pétrus Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ, Phạm
Quỳnh được xem là “hiện tượng” khó “xét đoán” của lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Nếu như, Pétrus Trương Vĩnh Ký được đánh giá là thế hệ trí thức “Tây học mang
tinh thần Việt Nam” đầu tiên thực hiện triệt để công cuộc cải cách chữ quốc ngữ([16])
bằng việc khai sinh tờ Gia định báo,
đánh dấu sự ra đời của nền báo chí hiện đại Việt Nam, thì Nguyễn Trường Tộ được
xem là lớp Nho sĩ theo công giáo đầu tiên thực hiện công cuộc hiện đại hóa đạo
Khổng Mạnh([17]).
Cả hai đã chiếm cứ các lập luận rõ ràng nhằm biện hộ cho mình trước sự phán xét
khắt khe của hậu thế lịch sử. Song, với Phạm Quỳnh thì ngược lại, sự xét đoán
về ông thường có độ “kênh” so với thực tiễn tư liệu, cũng như ý thức mong muốn
khai phóng và chấn hưng văn hóa tư tưởng nước nhà. Cái con người “tình ngay
nhưng lý gian” ấy vẫn là hoài niệm, khắc khoải của lịch sử về một cố quận không
ngừng gây “sóng gió” trong tranh luận. Ngay từ những bài báo đầu tiên biện hộ
cho Phạm Quỳnh của Thiếu Sơn hay Dương Quảng Hàm, cho đến sự phê phán “chì chiết” tới mức nghiệt ngã của Nguyễn Văn Trung
trong Chủ đích Nam Phong([18])
và Trường hợp Phạm Quỳnh([19]), thì sự thật về Phạm Quỳnh cũng như
công cuộc chấn hưng văn hóa nước Nam của ông vẫn chưa đủ chứng cứ thuyết phục,
nhằm đưa đến một kết luận ngã ngũ. Bản thân lập trường Phạm Quỳnh trong công
cuộc cải cách, và duy tân văn hóa Việt Nam là gì, đến nay vẫn là những truy vấn
bất khả thi. Vì ngay đến sự biện hộ của Thiếu Sơn, Dương Quảng Hàm về Phạm
Quỳnh thì họ cũng chỉ đứng trên lập trường văn học để quy chiếu. Trong thực tế,
bản thân sự “nhúng chân” của Phạm Quỳnh phi giới hạn trong các lĩnh vực khác
nhau như chính trị, triết học, xã hội…, cho thấy, việc lấy văn học làm đơn vị
đo lường phổ quát là một vấn nạn
không thể giải quyết triệt để về mặt tư tưởng.
Những phê phán của
Ngô Đức Kế hồi đầu thế kỷ XX hay của Nguyễn Văn Trung những năm 60 – 70 đối với
Phạm Quỳnh không thể xem là chân lý của một sự chấn chỉnh “phê bình một quan
điểm phê bình”([20]).
Bởi vì, Khi Nguyễn Văn Trung phê phán thậm tệ Nam Phong cũng như Phạm Quỳnh, thì mục đích quy chiếu chủ yếu vẫn
bám vào con người chính trị của Phạm Quỳnh([21])
nhằm diễn giải, suy ngược trở lại đối với các cứ liệu báo chí và văn học([22]).
Theo đó, con người chính trị của Phạm Quỳnh, tất yếu trở thành “trung tâm” của
những trận xung kích tấn công về tư tưởng triết học, văn học và văn hóa do ông
khởi xướng. Một sự quy chiếu như vậy không thể mang đến sự ngã ngũ về logic
hướng tới chân lý minh bạch, mà là sự quy chụp có điều kiện đối với thực tiễn
tư tưởng họ Phạm. Vì vậy, theo chúng tôi, với trường hợp Phạm Quỳnh, việc đánh
giá tư tưởng của ông, đặc biệt là quan niệm của ông về Nho giáo cũng như bảo
lưu quyền thực hiện trách nhiệm của nó đối với sự hưng thịnh toàn diện văn hóa
Việt Nam đầu thế kỷ 20 cần được khởi đi từ những cứ liệu khoa học có trong các
thư tịch sưu tầm, trên tinh thần vô vụ lợi và phi định kiến hệ tư tưởng.
Khởi đi từ tinh thần “mộ” Khổng học, lại có dịp được tiếp
cận với văn minh Tây Âu, đặc biệt là văn minh Pháp, Phạm Quỳnh đã chắt lọc
những giá trị tinh túy của Khổng học và “sửa” nó dưới cái nhìn khoa học, triết
học Tây phương, đưa đến sự cải hoán thuyết phục về nền quốc học và văn hóa Việt
Nam giai đoạn “tranh sáng tranh tối”. Với Phạm Quỳnh, vai trò của Nho giáo
trong việc thiết lập đạo đức nhân cách con người, nhằm bình ổn xã hội là hạt
nhân tiến bộ trong hệ thống Khổng học cũng như đạo đức học Trung Hoa, mà trong
cuộc “đụng độ giữa hai nền văn mình” Á – Âu về mặt tư tưởng ấy, sự khai sáng
của văn minh Tây phương, trong đó có văn minh Pháp không thể thay thế được.
Trong phần mở đầu tiểu luận ngắn bằng Pháp ngữ có tên L’idéal Du Sage dans La Philosophie Confucéenne (Quan niệm về người
quân tử trong triết học Khổng giáo) mà Phạm Quỳnh gửi cho các quan toàn
quyền Đông Dương đã nhấn mạnh đến điều đó như sau: “ La morale et la
philosophie de Confucius ont été et sont encore à la base de toutes les
sociétés d’Extrême Orient. Pour bien comprendre celles – ci, il est nécessaire
d’étudier les concepts fondamentaux de la doctrine du grand Sage don’t
l’influence s’est exrcée d’une façon
continue depuis près de vingtcinq siècles”([23])
(“Luân lý và triết học Khổng Tử từ xưa đến nay vấn là căn bản (tư tưởng) của
các xã hội Á Đông. Vì vậy, muốn hiểu cho được bản chất các xã hội ấy, chúng ta
phải đi nghiên cứu những quan niệm nền tảng của đạo Khổng về vai trò của người
quân tử. Chính quan niệm về vai trò của người quân tử ấy đã làm cho Khổng giáo
có ảnh hưởng liên tục [đối với các nước Á Đông] suốt 25 thế kỷ.”), theo đó,
quan niệm về người quân tử trong Khổng giáo qua mỗi giai đoạn biến thiên xã hội
đã trở thành thước đo của kẻ sĩ trước hiện thực. Nó là hồn phách của Nho giáo.
Cũng chính vì ý thức được tầm quan trọng của quan niệm
“người quân tử”, cho nên các đế vương đã sử dụng hoặc lợi dụng phạm trù này một
cách triệt để trong khi vận dụng Nho giáo vào công cuộc trị nước. Nó củng cố
quyền lực của chế độ chuyên chế, tôn vinh sức mạnh thiên mệnh (thần quyền),
song cũng chính quan niệm ấy đã can thiệp trực tiếp vào quá trình kìm hãm óc
sáng tạo và tinh thần phê phán của xã hội Á Đông dưới chế độ quân chủ.
Qua mỗi cuộc tranh hùng xưng bá thiên hạ của các đấng
“Thiên tử”, ý thức luân lý về người quân tử đã trở thành biện chứng pháp mang
màu sắc Á Đông. Nó khiến người học đạo ý thức được bổn phận, vai trò của mình
trong việc “tu thân” hướng đến “bình thiên hạ”, chứng thân cho đạo đức thanh
khiết sáng ngời của người có khả năng lập nghiệp lớn. Đồng thời, cũng chính ý
niệm quân tử đã trở thành thước đo, tấm gương để người mộ đạo lấy đó làm tiêu
chuẩn nhập thế tích cực, tẩy rửa những yếu tố thấp hèn, bệ rạc nhằm giữ cái khí
tiết của “cây mai”, “cây trúc”. Viết bài luận về
khái niệm “người quân tử” gửi tới người đứng đầu bộ máy xâm lược Pháp, với Phạm
Quỳnh là một “ý đồ” dân tộc rõ ràng. Bằng việc lập luận các yếu tố cấu thành
người quân tử của Khổng giáo, Phạm Quỳnh đã chỉ ra khả năng bất khuất của lớp
nho sĩ trước sự xâm lăng của Pháp quốc như lời “răn đe” sắc lẹm ẩn dưới hình
thức diễn ngôn bình dị: “Et on peut dire que dans ses données essentielles, le
confucianisme modern est resté à peu près tel qui’l était au temps où les
premiers disciples consignèrent dans leurs écrits les enseignements du Maitre”([24])
(“Và chúng ta có thể nói rằng, trong cốt tủy Khổng giáo, thì Đạo Khổng ngày
nay, dường như, không có sự thay đổi so với thời xưa khi các môn đệ mới bắt đầu
ghi chép lời dạy của Thánh nhân”).
Sự “không thay đổi so với thời xưa” của đạo Khổng mà Phạm
Quỳnh nêu lên trong bài viết của mình, có thể nói như một “phương thuốc giải
độc” sự ngạo nghễ, xâm lăng của các quan toàn quyền Pháp, nhấn mạnh vào cái
“Dũng” của Nho sĩ, trí thức trong nước trước thời cuộc. Cái gương quân tử ấy,
không chỉ là sức mạnh răn đe về mặt tư
tưởng hướng tới ý thức xâm lăng
của Pháp quốc, mà nó còn đe dọa trực tiếp tới tư tưởng coi mình là trung tâm của châu Âu khi Phạm Quỳnh đặt vai
trò, vị thế “người quân tử” của phương Đông bên cạnh
phạm trù “chính nhân” (l’honnête home) của người phương Tây: “Nous trouvons
chez l’un comme chez l’autre le meme souci du bon sens, le meme gout de la mesure,
le meme amour de l’ordre, le meme culte de la Raison considérée comme principe
universel, la meme horreur de tout ce qui est exagéré, de tout ce qui sent
l’emphase”([25])
(“Người “chính nhân” của Pháp cũng như người “quân tử” của Trung Hoa đều lấy lẽ
phải làm đầu, ưa sự điều độ, thích trật tự, tôn thờ chính lý làm phép chung của
vũ trụ, ghét cái quá đáng, không tự nhiên). Tính chất song trùng đó của phương
Đông và phương Tây đã phần nào kéo sụp tinh thần xem mình là “nước lớn”
của Pháp, đặt nho sĩ Á Đông sánh ngang về tư tưởng với trí thức Âu Tây. Bài
luận bằng Pháp ngữ của Phạm Quỳnh trong buổi gặp mặt Hội khai trí tiến đức
(1927) dưới sự chứng kiến của quan toàn quyền Pháp Monguillot, được xem là
“khối trọng pháo” tấn công trực diện vào âm mưu đồng hóa văn hóa của Pháp, đồng
thời dự báo sự trỗi dậy tất yếu của những chính- nhân yêu nước.
Để chứng minh thuyết phục vai trò của Nho giáo trong việc
bình ổn trật tự xã hội, Phạm Quỳnh đã xem chính lý/ lý tính/ Raison như là
“đuốc tuệ” cho hành động thực thi vai trò kẻ sĩ (người quân tử) trước các biến
động xã hội quốc gia, dân tộc. Qua việc diễn giải ý nghĩa tính lý trong Diễn ngôn về phương pháp của R.
Descartes, Phạm Quỳnh cho rằng: “La Raison, loi naturelle de tous les eetres,
se confound dans la pratique avec la bon sens qui est, comme dit Descartes, “la
chose du monde la mieux partagée”. Le meme philosophe dans son Discours de la Méthod, comme dans ses
letters à la princesse Elisabeth, parle souvent de “l’homme de bien qui est
celui qui fait tout ce qui lui dicte la vraie raison”. Cet “home de bien” qu’on
appelait alors “l’honnéte home” ne ressembletil pas comme un frère au sage
confucéen?”([26])
(“Chính lý là luật tự nhiên của vạn vật, đem ra ứng dụng thì đó là lẽ phải
thường ngày, theo như lời của nhà triết học Descartes là “cái của ở đời chia
đều hơn cả… Trong sách Diễn ngôn về
phương pháp của ông cùng những thư từ gửi cho Công nương Elisabeth, ông
thường nói đến”người lương thiện là người làm việc gì cũng theo chính lý. Người
lương thiện ấy, giai đoạn đó gọi là “chính nhân”, há chẳng giống với người quân
tử trong đạo Khổng sao?”). Với mục đích xem chính lý như là luật tự nhiên và
việc thực thi quyền phản kháng chống lại sự xâm hại trực tiếp vào cái chính lý
được xem là quyền cơ bản của con người, Phạm Quỳnh đã “ngụ ý” một thông điệp
sâu sắc gửi đến viên quan toàn quyền rằng: việc
xâm phạm của Pháp quốc đối với “trật tự xã hội” (l'ordre social) An Nam là sự
đi ngược lại với “lẽ phải” (la vérité), với những gì gọi là “điều độ” (la
modération) và “không tự nhiên” (non naturelle), chống lại quyền cơ bản được
thực hiện chính lý của kẻ sĩ, là xâm phạm trực tiếp vào “quyền tự nhiên của con người” (La loi naturelle de L’homme)
mà các chính nhân thế kỷ 17 ở Pháp đã từng kêu gọi. Đây chính là quan điểm
thể hiện tinh thần kẻ sĩ trước vận mệnh quốc gia, dân tộc ở Phạm Quỳnh, quan
điểm ấy có thể xem như một bản văn luận chiến “về tư tưởng” đối với hệ thống ý
thực hệ thực dân Pháp, đồng thời biểu hiện cao nhất ý nghĩa con người chính trị
vị dân tộc của ông.
Từ chỗ tìm ra mối liên hệ chung giữa tư tưởng nước Pháp
thế kỷ 17 với tư tưởng Khổng giáo nằm ở tinh thần nệ tính lý (Raison) và đề cao
chính – nhân/ người quân tử, Phạm Quỳnh xem nền tảng để cho tính lý phát huy
đúng quy luật, nhằm thông đạt cho được bản chất “người quân tử” phải được khởi
ra từ “đạo trung dung”, theo đó, vi phạm đạo “trung dung” có nghĩa là đánh mất
đi việc thực thi chính lý, cũng có nghĩa là đánh mất khả tính sáng ngời của
chính – nhân/ quân tử. Đằng sau lập luận này, ý nghĩa về trách nhiệm của kẻ sĩ trước
vận mệnh quốc gia, dân tộc được Phạm Quỳnh đồng nhất với việc phân biệt rạch
ròi đâu là “lẽ phải” và đâu là “bất cập”, “cực đoan”:
“Le Juste milieu, mais c’est cette “raison raisonnable”([27])
(“Đạo “trung dung” là gì? Là “lẽ phải không bất cập, không thái quá”),
qua đó, ông “ám chỉ” hành động chiếm cứ của Pháp quốc là hành động chống lại
“lẽ trung dung”, cũng có nghĩa, họ đang chống lại chính- lý mà họ gọi là lẽ tự
nhiên, là họ đang chống lại chính họ: “L’un et l’autre ont conçu à travers les
siècles un meme type d’humanité, type harmonieux et parfait, quil, s’il pouvait
eetre plus généralement réalisé, ferait de cette
terre le séjour idéal d’une humanité meilleure”([28])
(“Đông phương với Tây phương từ xưa đến nay có điểm chung là cùng nghĩ ra được kiểu mẫu làm người điều hòa, tốt đẹp,
giá nhiều người cùng nghĩ được như thế, thì thế gian này sẽ trở thành nơi lý
tưởng cho loài người ở.)
Dưới cái nhìn của Phạm Quỳnh, người quân tử đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng dân tộc, là “rường cột” của quốc
gia. Ý nghĩa việc thực hiện trách nhiệm của kẻ sĩ trước thời cuộc luôn gắn liền
với việc thực hiện trách nhiệm chính lý đối với xã hội của bậc chính nhân –
quân tử mà đạo Khổng đã có công khơi nguồn, mở lối. Tinh thần đó của Nho giáo
đã thấm nhuần vào quá trình “hành đạo” của kẻ sĩ. Nó luôn trỗi sóng, cuộn bão
mỗi khi quốc gia lâm nguy, mỗi khi văn hóa xuống cấp, suy đồi và mỗi khi quyền
lợi con người bị đe dọa nghiêm trọng.
Đó là quy luật của văn hóa Việt Nam, và cũng là quy luật của tinh thần kẻ
sĩ Việt Nam.
(Bài
đã in trong sách: Ngô Hương Giang (2013), Chân lý và Hư cấu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.123 - 145.
Và trong sách: Trách nhiệm của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quốc”, Viện Triết học – Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam, 4-2013)
Và trong sách: Trách nhiệm của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam và Hàn Quốc”, Viện Triết học – Viện Hàn Lâm khoa học xã hội Việt Nam, 4-2013)
[1] Phan Bội Châu, Tự
phán, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba
thế hệ trí thức người Việt, NXB Thế giới, H, tr. 185.
[2] Thời vụ sách là tác phẩm được Nguyễn Lộ Trạch viết vào năm 1884, và được ông sắp xếp
chung cùng tác phẩm Thiên hạ đại thế luận
trong một bộ sách có tên Ùy ưu lục.
[3] Văn minh tân học sách nghĩa là kế sách xây dựng nền học vấn
mới để đạt đến văn minh. Theo GS Trịnh Văn Thảo thì, Văn minh tân học sách là “tác phẩm tập
thể và mang tính khuyết danh”, là “công trình tổng hợp Tây phương đầu tiên của
Việt Nam được soạn thảo như một tuyên ngôn duy tân” (Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr.
240). Còn theo GS Đặng Thai Mai thì: “tác giả của tác phẩm này, đến nay chưa rõ”, chỉ biết rằng, “tác phẩm này được viết trước
năm 1904, mặc dù đến 1907 - 1908 mới được Đông Kinh Nghĩa Thục ấn hành”.
[4] Nguyễn Trường Tộ, Tế
cấp bát điều, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 203.
[5] Dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 205.
[6] Nguyễn Lộ Trạch, Thời
Vụ Sách, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 207.
[7] Dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 207.
[8] Dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 206.
[9] Nguyễn Lộ Trạch, Thời
Vụ Sách II, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 210.
[10] Nguyễn Lộ Trạch, Thời
Vụ Sách II, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr.211.
[11] Nguyễn Lộ Trạch, Thời
Vụ Sách II, dẫn theo Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr. 212 – 213.
[12] Dù rằng, ngay từ thế kỷ thứ X nước ta đã bắt đầu quá
trình hiện đại hóa chữ viết đầu tiên trong lịch sử tự vị Việt Nam, đánh dấu sự ra
đời và sử dụng chữ Nôm. Tuy nhiên, để học viết được chữ Nôm thì người sử dụng
chữ ấy phải kinh qua Hán học, ít nhất là bộ thủ Hán tự cấu thành chữ Nôm. Vì
vậy, “ bóng ma” Hán hóa về mặt tự vị không thể nói là đã bị xóa bỏ triệt để,
ngược lại, người sử dụng nó phải ít nhất hai lần sử dụng Hán tự: vừa phải học
chữ Hán, nghĩa Hán, đồng thời vừa phải nắm được, học được cách cấu tạo chữ Nôm
từ hệ thống chữ Hán đã được học trước đó. Vì vậy, về bản chất, muốn học được
chữ Nôm, người học phải là người thuần thục triệt để về Hán ngữ. Cuộc cách mạng
lớn nhất mà chữ Nôm mang lại cho nền quốc học đó là tinh thần tự chủ của dân
tộc Việt Nam, kiên quyết không chịu lệ thuộc tuyệt đối về mặt tư tưởng văn hóa
Trung Hoa.
[13] Văn minh tân học sách, bản dịch của GS. Đặng Thai Mai.
Nguồn tài liệu: Đặng Thai Mai (2003), Tác
phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB KHoa học xã hội, H, tr. 329.
[14] Đặng Thai Mai (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB KHoa học xã hội, H,
tr. 330.
[15] Đặng Thai Mai (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 330.
[16] Theo quan điểm của GS Trịnh Văn Thảo thì: “ Pétrus
Trương Vĩnh Ký hiện thân cho chủ nghĩa cộng tác không có tâm trạng. Mọi việc
ông làm đều phục vụ một đất nước có nền văn hóa mà Công giáo cũng là một thành
phần hợp thành. Thay vì dựa vào yếu tố tôn giáo và thời cơ lịch sử để củng cố
quyền lực cá nhân, ông hiến dâng mọi trí lực cho sự nghiệp văn hóa và góp phần
hình thành một phong cách riêng, mới, cho dân chúng Nam Kì, giải phóng mọi ức
chế dân tộc chủ nghĩa, và tìm thấy trong công cuộc thực dân một miền văn hóa
mới” (Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ
trí thức người Việt, Sđd, tr.192).
[17] Trong Thiên hạ đại
thế luận thảo in năm 1863 , Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra một bản kế hoạch
nhằm hiện đại hóa đạo Khổng Mạnh ở Việt Nam, trong đó, ông giải thích: “sự thất
bại của Việt Nam trước nước Pháp như kết quả tất yếu của thuyết địa chính trị
Âm – Dương (phía Tây do Kim đại diện, đóng vai trò chi phối, phía Đông do Mộc
đại diện, bị chi phối)!...Lịch sử nhân loại như một chuỗi nối tiếp nhau theo
thời gian của hai giai đoạn, giai đoạn đầu do phương Đông chi phối trong khi
giai đoạn sau (giai đoạn đương thời) chứng kiến người học trò (phương Tây) bắt
kịp và qua mặt thầy ….“người sáng suốt không nhìn lại phía sau, mà trước hết
cần quan tâm đến tương lai”…Cần phải đổi mới trước tiên hệ thống giáo dục,
khích lệ óc phê phán và khoa học dân chúng bằng cách đưa vào giảng dạy những
môn học mới đã chứng minh được khả năng trong suốt cuộc cách mạng văn hóa,
không thể tách biệt với cuộc cách mạng công nghiệp của châu Âu: kinh tế, chính
trị, lịch sử, khoa học ứng dụng và nghệ thuật quân sự” (Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt, Sđd, tr.
202 – 203).
[18] Xin xem Nguyễn Văn Trung (1975), Chủ
đích Nam Phong, Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn.
[19] Xin xem Nguyễn Văn Trung (1975), Trường
hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn.
[20] Nguyễn Văn Trung (1975), Chủ đích Nam Phong, Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn, trích lời tựa.
[21] Trong Chủ đích Nam
Phong, Nguyễn Văn Trung chỉ rõ mục đích và hướng đi của mình như sau: “Ý
định của chúng tôi là muốn nhấn mạnh vào đòi hỏi phải có một quan điểm chính
trị khi viết văn học sử thời kỳ cận, hiện đại. Thật ra hầu hết những nhà văn
học sử hiện nay ở miền Nam đều ít nhiều chấp nhận lối nhìn chính trị rõ rệt, dứt
khoát về sự lựa chọn quan điểm trên nên đã không đi đến cùng, không logic với
chính mình, do đó đã rơi vào thái độ mà chúng tôi gọi là “nhập nhằng” đưa tới
một hiểu biết lệch lạc về văn học thời kỳ này. Chúng tôi đã chọn Nam Phong vì
coi nó như một trường hợp điển hình hơn cả về sự gắn bó mật thiết giữa văn học
và chính trị trong lịch sử văn học thời kỳ cận, hiện đại và vì những hiểu biết
lệch lạc sai lầm do thiếu một quan điểm chính trị dứt khoát cũng thật rõ rệt”
(Nguyễn Văn Trung (1975), Chủ đích Nam
Phong, Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn, trích lời tựa).
[22] Từ điểm đứng quy chiếu chính trị đối với tư tưởng, triết
học và văn học trên Nam Phong, cũng như cá nhân Phạm Quỳnh, dẫn đết một sự quy
chụp tất yếu sơ cứng và máy móc của tác giả
Chủ đích Nam Phong: “Do tính chất lừa bịp của Nam Phong là ở chỗ nhập
nhằng, cái tùy thuộc được coi làm cốt yếu, cái thực sự là phương tiện, công cụ
làm mục đích chính. Đề cao quốc văn, giới thiệu văn hóa Tây phương, thực ra chỉ
là một phương tiện văn hóa để phục vụ một mục đích chính trị, nhưng lại được
che giấu, và được giới thiệu như chủ đích chính đồng thời tác dụng hữu ích phần
nào cho việc bồi bổ quốc văn thực ra chỉ là thứ yếu, lại được coi như là thành
quả chính yếu, duy nhất của tạp chí” (Nguyễn Văn Trung (1975), Chủ đích Nam Phong, Sđd, tr 120.).
[23] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal
Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, Đông Kinh Ấn Quán press, p.8.
[24] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal
Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, op.cit., p.9.
[25] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, op.cit., p. 43 - 44.
[26] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal
Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, op.cit., p.44.
[27] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, op.cit., p.45.
[28] Phạm Quỳnh (1928), L’idéal Du Sage dans La Philosophie Confucéenne, op.cit., p.46.
(Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://lyluanphebinh.blogspot.com/ khi phát hành lại bài viết này trên các phương tiện thông tin đại chúng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét