Phần 1: Phê bình văn học Việt Nam: "Đâu mái
nhà xưa"
hay là, "Đường trở về"
(Bài đã đăng trên Báo điện tử Tổ Quốc)
Ngô
Hương Giang
Đâu mái nhà xưa!
Lịch sử phê bình văn học
trên báo chí của Việt Nam có thể nói là "đi Tây về Đông". Nhận định
này không phải là quá đà hay cực đoan. Những năm đầu thế kỷ XX, thế hệ Tây học
sau một thời gian "vong thể" ở trời Tây đã mang theo "Tân
thư" về nước và phát triển một nền văn học mạnh, mới, đặt những nhịp cầu
quan trọng để đưa văn học Việt Nam vượt thoát khỏi lằn ranh văn học Trung Đại,
hướng tới nền văn học Hiện Đại. Thế hệ Tây học ấy, cùng lúc, cũng đặt những
viên gạch ban đầu vững chắc cho nền báo chí Việt Nam Hiện Đại. Những giai phẩm
văn học lần đầu tiên đã vượt thoát khỏi lối văn thơ "tầm chương trích
cú" nơi "cửa khổng" để "hạ đáp" xuống mảnh đất mới của
dòng văn chương báo chí. Còn nhớ Nguyễn Trọng Quản đã "hạ sinh" Thầy
Lazarô Phiền trên tờ Thông Loại Khóa Trình (Miscellannées ou
Lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, communales,
cantonales et les familles - bìa tiếng Pháp, ruột, tựa và bài vở là quốc ngữ)
(1888); Với Gia Định báo, Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của
(Paulus Của), Trương Minh Ký được mời làm chủ bút với các mục Chuyện
Đời Xưa, Lựa Nhón Lấy Những Chuyện Hay Và Có ích; rồi Phan Khôi khai phóng
ý niệm vượt thoát khỏi thơ truyền thống bằng lối viết ngẫu nhiên, tùy hứng
với Tình Già trên tờ Phụ Nữ Tân Văn ngày 10
tháng 3 năm 1932; Nhóm Tự Lực Văn Đoàn làm mưa làm gió trong ngôi đền văn
học là báo Phong Hóa (từ 1932-1936, sau khi tờ Phong
Hóa bị đóng cửa thì tờ Ngày Nay thay thế), mở ra chân
trời mới (new- horizon) của sáng tạo tiểu thuyết Việt Nam. Tất nhiên, đã có
sáng tạo văn học trên báo chí, ắt phải có phê bình văn học trên báo chí, từ
những nền móng sơ khởi của một nền văn học đang đi vào quỹ đạo thời đại, với
những bứt phá tư tưởng và tâm huyết gây dựng nền quốc học văn chương chân chính
của các sĩ phu yêu nước đến những trận bút chiến "gay gắt" nhằm bảo
vệ chân lý trong sáng tạo.
Trong buổi giao thời ấy,
cuộc đấu tranh giữa các ý thức hệ trong văn học đã làm bùng vỡ nhiều giá trị
văn chương. Chúng ta khó có thể quên được cuộc luận chiến của Tập Xuyên- Ngô
Đức Kế với Thượng Chi - Phạm Quỳnh qua bài Luận về chính học cùng tà
thuyết - Quốc văn - Kim Vân Kiều - Nguyễn Du đăng trên
báo Hữu Thanh, số 21 ra ngày 1 tháng 9 năm năm 1924, hoặc cuộc
tranh luận giữa Phan Khôi và Trần Huy Liệu trên Đông Pháp Thời báo(1928)…
Trong những cuộc tranh luận ấy, vượt trên khuôn khổ của phê bình báo chí, phẩm-
tính- học- thuật trong phê bình đã đặt ra những giới hạn khắt khe và nghiêm túc
với hầu hết các cuộc tranh luận. Tính chất điểm bình của báo chí đã thực sự
nhường bước trước những vấn đề sâu sắc của thời đại. Trên Tạp chí Tri
Tân từng ghi nhận những "xung đột" tư tưởng trong quan niệm
về văn hóa văn học, Lê Thanh và Vũ Ngọc Phan với những luận điểm nảy lửa
về Thế nào là phê bình văn học sử? Hay Thế nào là phê
bình phi- văn học sử? Qua mục "Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về
một phương pháp phê bình văn học"; Hoa Bằng Với mục: Những
tấm thân tàn dâng trên bàn thờ văn hóa, Hoàng Thiếu Sơn với mục Hùng
tráng ca Việt Nam và hùng tráng ca Âu Tây, cải tạo tinh thần thơ ca; cuộc
tranh luận giữa Hải Triều và Thiếu Sơn xoay quanh vấn đề "Nghệ
thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh", mà Hải Triều đã
phản bác lại bài: "Hai cái quan niệm về văn học" của
Thiếu Sơn... Phê bình văn học trên báo chí truyền thống, thực sự đã vượt ra
ngoài giới hạn của văn học, lan rộng sang lĩnh vực văn hóa - chính trị, quan
tâm tới những vấn đề lớn lao của thời đại. Tất cả những lược điểm trên đã chứng
minh rằng, chúng ta từng có lịch sử linh thiêng của một nền phê bình văn học
báo chí chân chính. Trong ngôi đền văn học uy nghiêm, bí sử ấy đã sản sinh
ra những con lạc đà mang vác sức nặng tư tưởng, vượt qua những biến cố
thời đại. Chúng ta cũng từng có những con sư tử dũng mãnh với tiếng
gầm lạnh ngắt, toát lên vẻ uy nghiêm của các cuộc luận chiến văn chương.
Điều ấy nhắc nhở chúng ta rằng, việc tìm về mái nhà xưa như là
việc làm cần thiết và gấp gáp, để thấy nền phê bình của chúng ta không lạc lõng
hay bị đứt quãng với truyền thống báo chí vốn là tự hào của văn minh phương
Tây. Hãy trở về và trở về một cách nghiêm túc!
Đường trở về
Phê bình văn học trên báo
chí ở Việt Nam trong mười năm đầu thế kỷ 21, không chỉ dừng ở mức độ trầm
lặng, mà cần thẳng thắn nói rằng là yếu. Như một nghịch lý, khi
các phương tiện truyền thông phát triển rầm rộ, báo chí được nâng lên vị trí quảng
diễn ưu tiên cho mọi khám phá và phê phán tư tưởng văn học, thực tiễn phê bình
văn học trên báo chí ở ta lại trở về với thói quen thường nhật của người phương
Đông: Thích hoài cổ. Những trích văn báo chí của các nhà phê bình
chủ yếu quay lại với mái nhà xưa của phê bình văn học báo chí
tiền - chiến hoặc nền phê bình báo chí các đô thị miền Nam trước 1975. Nguyên
do căn bản nằm ở đâu? Theo tôi sự yếu kém của phê bình văn học Việt Nam đương
đại trên báo chí nằm ở bốn nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, quan niệm về
vai trò, chức năng, tầm quan trọng của phê bình báo chí ở ta chưa - chịu - thay
đổi. Chúng ta vẫn đánh đồng giữa nhiệm vụ khám phá giá trị/vấn đề tác
phẩm văn học làm một với tính thời sự của báo chí, cho
nên, đã vô hình xem báo chí như một món hàng fast-food lướt qua đời sống văn
học. Đây là vấn đề phổ biến. Phê bình báo chí có thể xem như là trung
giới giữa phê bình học thuật và nhiệm vụ truyền thông. Do đó, phê bình báo
chí hướng nhiệm vụ thông điệp và định hướng dư luận hiểu đúng và quan tâm đúng
vấn đề văn học đang bàn luận, mặt khác, phê bình báo chí phải đảm bảo tính
nghiêm ngặt của nhận định, mang tư tưởng cá biệt nhà phê bình. Đó là lý do tại
sao, phê bình văn học trên báo chí không hoàn toàn chú trọng tới tính sự kiện
như báo chí thuần túy và cũng chẳng phạm vào tính nghiêm ngặt, cẩn trọng của
phê bình học thuật, phê bình hàn lâm. Nói gì thì nói, dù dưới hình thức nào, đã
là phê bình, với việc bộc lộ kinh nghiệm thẩm mỹ, kinh nghiệm sống chủ quan của
người viết trước đối tượng văn bản văn học, thì bài phê bình trên báo chí cũng
phải khẳng định rạch ròi cho được giá trị tư tưởng của nhà phê bình: Giữa hợp
lí/ bất- hợp lý, chân lí/ ngụy- chân lý, tích cực/ phản- tích cực… Không thể có
chân lý chung chung, cũng chẳng thể có phán định lập lờ, nước đôi. Vì bài phê
bình, bất luận đăng tải dưới dạng thức nào cũng phải nói cho được ý niệm của
nhà phê bình trước đối tượng, nghĩa là có tư tưởng, có cá tính sáng tạo đặc
thù.
Chính việc nhập nhằng
giữa nhiệm vụ, chức năng của phê bình báo chí với báo chí truyền thông và với
phê bình học thuật, cho nên, trong quan niệm về phê bình báo chí ở ta mới phân
ra điểm sách, bình luận và phê bình báo chí. Nói đúng ra, phê bình báo
chí là một dạng rút gọn của phê bình hàn lâm (academic criticism- rút
gọn những quy ước, chú thích, và thuật ngữ khoa học hàn lâm, nghiêm nhặt) dưới
hình thức truyền thông báo chí. Còn, đã là phê bình, thì bất luận dưới dạng
thức nào cũng đòi hỏi tính thời sự, dẫu có hướng về quá khứ văn học thì cũng
là quá- trình- đọc- quá khứ- từ- hiện tại và ngược lại đọc-
hiện tại- từ- quá khứ , cho nên, lối quan niệm báo chí như một dạng
thức bình điểm về đời sống văn học là sai lầm. Theo tôi, không có sự phân biệt
giữa phê bình với điểm sách trên báo chí, cũng như phân biệt giữa phê bình và
bình luận văn học. Điểm sách là điểm sách, còn phê bình là phê bình, rạch ròi.
Điểm sách là nhiệm vụ thông diễn (hermeneutics) văn bản, gợi mở những khía cạnh
giúp định hướng nhận thức luận văn học của nhà phê bình, còn nhà phê bình dựa
trên những gợi mở ấy mà đi sâu, nhận định và làm rõ nhận định. Vì vậy, điểm
sách rất quan trọng, nhưng tiếc rằng, ở ta số lượng người điểm sách chuyên
nghiệp đếm trên đầu ngón tay. Tôi đánh giá cao nhiệm vụ của người điểm sách, vì
họ phải là người có trình độ và khả năng mẫn cảm văn chương sâu sắc mới làm
được điều định hướng nhà phê bình trước một tác phẩm cụ thể.
Còn mối quan hệ giữa bình luận và phê bình văn học trên báo chí, theo tôi không
có gì phải lý tính hóa trong việc cắt nghĩa nó, bình luận văn
học là cấp độ thấp kém của phê bình văn học đúng nghĩa, thuộc
về những cá nhân không chuyên, không được đào tạo bài bản về văn
học, chỉ thuần túy xúc cảm cá biệt, không có sự phân bua của khoa học khi đối
thoại với tác phẩm. Do đó, bình luận văn học là đứa con khiếm khuyết, bệnh tật
của phê bình văn học (gồm: phê bình học thuật và phê bình rút gọn trên báo
chí).
"Con dại" thì
"Cái mang". Sự èo uột của đứa con bình luận- văn học khiến phê bình-
văn học chịu kiếp "Cái mang" với danh phận yếu kém. Vì vậy, bình luận
văn học không được xem là phê bình chuyên nghiệp. Còn phê bình văn học trên báo
chí, thì như tôi đã chỉ ra, về bản chất, nó là phê bình học thuật, phê bình hàn
lâm, nhưng đã được rút gọn, được đơn giản hóa những- vấn đề-
quy- ước có tính- nghiêm- nhặt của khoa học, giữ lại những nhận định, những suy
niệm về văn học và về nhân bản- trong- văn học. Do đó, đã là phê bình
thì phải có tư tưởng, bất luận in ấn dưới dạng công trình khoa học, sách, hay
báo chí. Chúng ta không khó để kiểm định nhận định trên, vì Nguyễn Văn
Vĩnh, Phạm Quỳnh, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Hoa Bằng, Nguyễn Văn Trung, Hoàng
Ngọc Hiến… vẫn còn đó những tác phẩm phê bình báo chí đích thực. Tác phẩm phê
bình trên báo chí của họ mang giữ tư tưởng, phong cách và cá tính mãnh liệt của
một con lạc đà chất trên vai những gánh nặng suy tư vươn tầm thời đại.
Thứ hai, từ quan niệm sai
lầm về vị trí, vai trò, chức năng của phê bình văn học trên báo chí, dẫn đến
quan niệm sai lầm về việc thẩm định vấn đề của chủ thể biên tập các tác phẩm
phê bình báo chí. Không thể chỉ đổ lỗi cho chủ thể phê bình, mà chủ thể kiểm
duyệt bài phê bình trên báo chí cũng cần được nhìn nhận và phản tư đúng mức.
Trên các phương tiện báo chí văn nghệ mười năm trở lại đây, thật hiếm thấy sự
hiện diện của những chủ bút, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với những bài
phê bình hóc búa, dám hy sinh trách nhiệm của mình để bài phê bình của nhà phê
bình được khai phóng. Nói như vậy thì, mỗi tờ báo hay tạp chí cũng cần phải có
một chủ bút có trình độ văn học, trình độ triết học, trình độ ngoại ngữ và một
bản lĩnh của người phất cờ cho những cuộc tranh luận văn chương diễn ra công
khai, giống như vị chủ tướng ra hiệu lệnh phát trống cho những chiến mã văn
chương lao vào sa trường văn học một cách dũng mãnh. Chủ bút của một tờ báo hay
tạp chí phải là người biết - đọc - hiện tại - từ - quá khứ, nghĩa
là phải am tường cái đã qua và nhạy bén với cái đang và sẽ đến trong văn học,
sẵn sàng đứng ra tổ chức các cuộc tranh luận xuyên- biên giới, xuyên- tầng lớp/
giai cấp về văn học, sẵn sàng vượt lằn ranh của một nền văn học phong bế, để
hướng đến nền văn học khai phóng - nơi chỉ dành cho những con lạc đà đang suy
tưởng về cuộc sống và về phận người. Văn học sẽ là gì, nếu như chẳng phải nhiệm
vụ của nó là truy vấn về bản chất người trong cuộc đời này?
Khi chủ bút có trình độ, có tinh thần chuyên nghiệp, có thái độ cầu thị, thì
khi ấy, những bài phê bình văn học sâu sắc, nghiêm cẩn, sẽ vượt ra ngoài ranh
giới của những điều dễ dãi, nhàm chán, đặt ra Chủ đích nhân văn của văn
học. Khi nhà phê bình chuyên nghiệp trở về mái nhà xưa, tìm lại
giá trị của mình trong phê bình, được báo chí sẵn sàng nhường ngôi nhằm canh
giữa ngôi đền văn học, thì khi ấy, phê bình báo chí của chúng ta mới thực sự
vượt qua "ký ức" của nền phê bình quá khứ. Hãy trở về và trở về với
chính mình, để đôi chân trần của mình sải dài và tiếp tục bước trên những mũi
gai văn học đang cào xé những ngón chân ứa máu của "con lạc đà".
Thứ ba, tính chất giáo
điều trong phê bình nói chung và phê bình trên báo chí nói riêng cần phải gạt
bỏ với thái độ nghiêm túc và bằng sự thành thật với danh dự của một nhà phê
bình chân chính. Nền phê bình của chúng ta đang trở nên giáo điều hơn bao giờ hết.
Nền phê bình báo chí đáng lẽ ra phải là những phát ngôn thẳng thắn của nhà phê
bình, của con sư tử dũng mãnh trước những vấn đề gai góc văn học, thì giờ đây,
nó lại bị/được những nhà thơ, những nhà văn không mang nổi thân phận thi văn
của mình giáo huấn bằng những bài học giáo điều, qua những luận đề "tại
sao nền phê bình của chúng ta yếu?". "Nhà phê bình phải thế
này", "nhà phê bình phải thế kia". Tôi không tin một nhà thơ hay
một văn nhân lại có thể làm được những việc mà nhà phê bình chuyên nghiệp làm,
vì xã hội đã có phân công lao động, thì sẽ có phân công chủ thể lao động chuyên
nghiệp hay không chuyên nghiệp. Phát ngôn về phê bình văn học phải được thực
hiện bởi những nhà phê bình chuyên nghiệp chứ không phải là những nhà thơ
chuyên/ bán chuyên nghiệp. Tiếc rằng, việc dẫn dắt phê bình trên báo chí của
chúng ta lại không phải là con lạc đà chất đầy gánh nặng suy tư, hay con sư tử
dũng mãnh, mà lại là những lớp cáo muốn mượn oai hùm để
đánh bóng mình và để bạn đọc nhớ tên mình. Đó là việc làm vô nghĩa và giáo điều
của chủ thể văn học. Chỉ khi nào nền phê bình báo chí của chúng ta vượt thoát
khỏi lằn ranh giáo điều ấy, thì khi đó, chúng ta mới có một nền phê bình báo
chí chân chính, chuyên nghiệp - Một sa trường nghiêm ngặt cho những dũng tướng
phê bình có thể lập thức và lập thuyết trong văn học. Và chỉ có trở về và không
ngừng trở về với chính mình, trong thái độ suy tư, phản tỉnh nghiêm túc, phải
biết hổ thẹn với những phát ngôn giả tạo, thì khi ấy, chúng ta mới vững mạnh và
dám đương đầu với bão tố thời gian, với nhân bản thông tin và với thế giới đầy
rẫy những kẻ thù nguy hiểm của Chủ nghĩa khủng bố lắm cạm bẫy này.
Cuối cùng, nói đi thì
cũng phải nói lại, nhà phê bình chuyên nghiệp hiện thời đã quên dần bản chất
lạc đà, bản chất sư tử trong mình. Nhiều nhà phê bình đã chạy theo kinh tế thị
trường, hoặc vì quan hệ cá nhân mà quên đi nhiệm vụ của mình là suy niệm về
hiện thực, về nhân bản thời đại, quên đi bản chất lao động thanh tao của mình
là đeo, thồ tư tưởng, bước những bước nặng nhọc vì trách nhiệm ghì trên
vai: Phải nhìn sâu vào thế giới, để thấy sự phá hủy của con người đang
diễn ra nhanh chóng. Con lạc đà tư tưởng ấy đã quên mất mình phải trầm tư
trước sự đổ nát niềm tin, trước sự thất bại và phá sản của nhân tính hiện đại,
để răn đe con người về sự băng hoại tình cảm của nó. Nhà phê bình văn học Việt
Nam cũng quên đi tiếng gầm của một con sư tử trước những điều "trông thấy
mà đau đớn lòng". Tiếng gầm ấy đã lùi xa vào dĩ vãng oai hùng, trong những
bản thảo luận chiến nóng bỏng. Nhiều nhà phê bình muốn an thân, muốn trở về con
người vị kỷ của mình để những kẻ khác không hướng ánh mắt suy xét đến cuộc sống
phê bình văn học vốn bình yên mà y đang sống. Sự quy về để giữ mình của một số
nhà phê bình đã đánh mất bản chất "sói", đánh mất đi sự "oai
nghiêm" trong tiếng gầm thét của con sư tử dũng mãnh trước những vấn đề
bất công, xấu xa, và giả tạo trong văn học. Đâu những con sư tử Hải Triều, Phạm
Công Thiện, Lan Khai thuở nào đã vắng bóng tiếng gầm rú lạnh trời giữa rừng
thiêng văn học? Đâu những con sư tử lão làng Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Phạm
Quỳnh, Ngô Đức Kế đang xù bờm đe dọa những tiếng kêu trầm thống trước sự tàn
phá con người? Hãy trở về và trở về với con lạc đà và tiếng gầm sư tử, để đau
cho nỗi đau nhân loại, để đau cho sự phá sản về nhân tính đang diễn ra hàng
ngày. Ngôi đền phê bình văn học Việt Nam cần được canh giữ bởi những con lạc đà
chuyên chở tư tưởng, bước những bước đi ì ạch, nặng nề, là tiếng gầm rú linh
thiêng, oai hùng của con sư tử trước những loài hạ đẳng muốn mượn
oai hùm để thống soái sự linh thiêng của văn chương nghệ thuật đích
thực.
(Còn
tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét