JOSEF QUITERER (*)
Ludwig Wittgenstein |
Đặt Neurath bên cạnh Wittgenstein, tác giả nhằm chỉ ra viễn
cảnh phát triển của triết học khoa học có ảnh hưởng mạnh mẽ so với triết học sơ
kỳ của Wittgenstein trong Luận cương Lôgíc – triết học. Trong đó, điểm
đáng quan tâm nhất nằm ở phương pháp của Neurath trong việc tương đối hóa toàn
diện các khái niệm chân lý và tính khách quan. Qua sự phê phán của Neurath với
Wittgenstein, tác giả hướng tới khẳng định vai trò của thuyết kiểm chứng
(Verificationism) sau khi được tương đối hóa
và được chuyển hóa để trở thành dạng thức mang tính thực dụng hơn của triết học
khoa học.
***
Ludwig Wittgenstein và Otto Neurath định hình tư tưởng triết học của các triết gia Áo trong
những năm 20 và những năm đầu 30 của thế kỷ XX. Có thể sự đối lập giữa hai
triết gia này là nguyên nhân dẫn đến những tranh luận gay gắt của Nhóm Viên.
Ngay cả nếu như không có sự đối đầu trực
triếp giữa Neurath và Wittgenstein, thì nhân cách và vị trí triết học
của họ vẫn gây nên những tranh luận quan trọng nhất về những vấn đề cơ bản
trong triết học khoa học.
Nhóm Viên được thành lập từ các cuộc họp không chính thức
ở văn phòng của Trưởng khoa Triết học, Đại học Viên là Moritz Schlick (1882-1936) trong những năm đầu thập niên
20 của thế kỷ XX. Nhóm Viên có thể coi là cái nôi của triết học phân tích đương
đại và triết học khoa học. Nhóm được hình thành bởi các triết gia, các nhà toán
học, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, họ đã nỗ lực giải quyết các vấn đề cơ
bản của lôgíc và triết học khoa học. Những
thành viên chính thức của nhóm, bao gồm Hans Hahn, Otto Neurath, Philipp
Frank, Herbert Feigl, Rudolf Carnap, Friedrich Waismann, Theodor Radakovic,
Olga Hahn-Neurath, Kurt Gödel, Felix Kaufmann, Victor Kraft, Karl Menger, Gustav Bergmann, Marcel
Natkin, Heinrich Neider, Rose Rand và Edgar Zilsel([1]).
Ludwig Wittgenstein không phải là thành viên chính thức của Nhóm Viên.
Ông là người đã phản đối việc thành lập nhóm triết gia, dù rằng cuốn Luận
cương lôgíc - triết học của ông đã từng gây ảnh hưởng tới nhiều cuộc thảo
luận của Nhóm Viên. Thỉnh thoảng
Wittgenstein có hiện diện, nhưng không phát biểu gì cả. Thường là ông
vắng mặt, những tư tưởng của ông đã được Friedrich Waismann trình bày.
Mặc dù cách nhìn nhận và quan điểm
của họ về các vấn đề nền tảng của triết học khoa học khác nhau, song các thành
viên của Nhóm Viên đã cùng nhau thống nhất một số nguyên tắc chung. Những
nguyên tắc này đưa ra vào năm 1929 và được gọi là “bản tuyên ngôn”: Thế giới
quan khoa học của Nhóm Viên
(Wissenschaftliche Weltauffassung Der Wiener Kreis)(2). Theo bản tuyên ngôn do Otto Neurath soạn thảo thì các
thành viên của Nhóm Viên phải cam kết trung thành với quan điểm được gọi là
“Thế giới quan khoa học”. Thế giới quan khoa học này đã từng được mô tả bằng
một mệnh đề trong cuốn Luận cương của Ludwig Wittgenstein rằng: “Những
gì mà có thể được nói ra, thì có thể được nói ra một cách rõ ràng” (Tlp
4.116)(3). Chúng ta nên tránh sử dụng những câu nói, những thuật ngữ mơ hồ.
Công cụ để đạt được mục tiêu có được ngôn ngữ rõ ràng
chính là phép phân tích lôgíc: Những câu nói mơ hồ hoặc không rõ ràng phải được
phân tích; kết quả của việc phân tích này có thể tạo ra một loạt những mệnh đề
hoặc được kiểm chứng hoặc được phủ chứng. Vấn đề xoay quanh việc kiểm chứng và
phủ chứng của các mệnh đề luôn là đề tài sôi nổi trong các cuộc thảo luận của
Nhóm Viên: Chỉ những mệnh đề được kiểm chứng hoặc phủ chứng là những mệnh đề có
ý nghĩa. Hay nói cách khác, một mệnh đề chỉ có ý nghĩa nếu tôi có thể đưa ra
phương pháp để kiểm chứng mệnh đề đó. Ví dụ, mệnh đề “tuyết màu trắng” là một
mệnh đề có nghĩa, bởi tôi có phương pháp để kiểm chứng điều này - Tôi có thể ra
ngoài và xem điều tôi nói là đúng hay là sai. Theo Friedrich Waismann,
Wittgenstein cho rằng, “Ý nghĩa của một mệnh đề nằm ở chính phương pháp kiểm
chứng của nó”(4). Những mệnh đề siêu hình thì
vô nghĩa, bởi chúng sẽ không bao giờ được kiểm chứng hay phủ chứng. Chúng ta
hãy lấy ví dụ mệnh đề: “Chúa tồn tại”. Nếu tôi không có phương pháp để kiểm
chứng điều tôi vừa nói về sự tồn tại của Chúa có thật hay không, thì tôi sẽ
không bao giờ tìm ra câu trả lời cho mệnh đề đó là đúng hay sai. Vì vậy, mệnh
đề tôi đưa ra là vô nghĩa.
Có hai cách để kiểm chứng và phủ chứng các mệnh đề: a)
Trên phương diện lôgíc, một mệnh đề có thể đúng hoặc sai. b) Trên phương diện
kinh nghiệm, một mệnh đề cũng có thể đúng hoặc sai. Một sự thống nhất chung về
trình tự lôgíc để kiểm chứng hoặc phủ chứng một mệnh đề đã được đưa: Một mệnh
đề là đúng về mặt lôgíc, nếu như phép phân tích lôgíc chỉ ra tính chất hằng
đúng (tautological) của mệnh đề (hoặc nó là một chân lý toán học), nó là một
mệnh đề sai về mặt lôgíc, nếu nó là mệnh đề tự mâu thuẫn (hoặc nó sai về mặt
toán học). Tuy nhiên, có rất nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến phương
thức kinh nghiệm để kiểm chứng hoặc phủ chứng một mệnh đề. Trên thực tế, hầu
hết những cuộc thảo luận của Nhóm Viên xoay quanh chủ đề kiểm chứng hoặc phủ
chứng các mệnh đề có nghĩa.
Một khó khăn ai cũng thấy liên quan đến việc kiểm chứng
những mệnh đề là vấn đề về những câu cơ bản diễn tả trực tiếp thực tại kinh
nghiệm - thường gọi là những câu giao thức
(protocol sentences). Có một cuộc tranh luận sôi nổi (không chỉ) giữa Moritz Schlick và Otto Neurath về
bản chất của những câu cơ bản đó. Trong khi Schlick bảo vệ tính không thể sửa
của những câu giao thức thì đối với Neurath và Popper, những câu giao thức này
có thể sửa được.
Một chủ đề khác là vấn đề về những gì “đã có sẵn” trong kinh nghiệm. Đối
với một số tác giả, “cái đã có sẵn” trong kinh nghiệm là những đối tượng vật
lý, một số tác giả khác ưa gọi là những dữ kiện cảm tính (Mach), cũng có những
tác giả lại coi những gì đã có sẵn trong kinh nghiệm là toàn bộ những cảm giác
(Carnap); với Neurath, việc thiết định kiểm chứng dựa vào những gì “đã có sẵn”
(trong kinh nghiệm) là không có ý nghĩa gì cả, bởi chúng ta không thể vượt ra
khỏi phạm vi của mệnh đề.
Chủ đề thứ ba có lẽ là chủ đề quan trọng nhất trong lĩnh
vực kiểm chứng là vấn đề chân lý. Câu hỏi được đặt ra là liệu chân lý có phải
là mối quan hệ giữa phát biểu mang tính khái niệm với trạng huống của sự vật
trên thực tế (thuyết chân lý tương hợp) hay chân lý là mối quan hệ chặt chẽ
(gắn kết) giữa một phát biểu với các mệnh đề khác trong hệ thống khái niệm của
chúng ta (thuyết chân lý gắn kết).
1.
“Thang Wittgenstein” - Nội dung triết học trong Luận cương lôgíc - triết học.
Chủ đề thứ ba này chính là điểm khởi phát cho cuốn Luận cương của Wittgenstein.
Luận cương lôgíc - triết học có thể được hiểu là sự phân tích có
hệ thống các điều kiện để kiểm chứng và phủ chứng những mệnh đề có nghĩa. Mối
quan tâm chính trong Luận cương của ông là: Những điều kiện gì là cần
thiết để chỉ ra một mệnh đề là đúng hay là sai? Theo Wittgenstein thì rõ ràng
rằng, một kiểm chứng hoặc phản chứng kinh nghiệm thuyết phục có thể có được nếu
phép phân tích lôgíc dẫn đến kết luận về sự hiện diện của các mệnh đề đơn
mà tính đúng hay sai của chúng không phụ thuộc vào tính đúng hay sai của mệnh
đề khác, mà chỉ phụ thuộc vào mối tương quan hoặc không tương quan của nội dung
của chúng với thực tại. Vì vậy, đối với Wittgenstein, thuyết chân lý tương hợp
không phải là một lập trường mở ra cho những cuộc tranh luận về nhận thức luận
sâu hơn, mà thuyết này hàm chứa một yêu cầu (đòi hỏi) về một sự kiểm chứng (có
tính) thuyết phục đối với những mệnh đề có nghĩa.
Điều này có thể nhận thấy khi ta phân tích kĩ hơn Luận
cương: Trước khi tiếp cận tác phẩm này, điều quan trọng, chúng ta cần phải
biết là trình tự lập luận triết
học của Wittgenstein thường không tương ứng với thứ tự các luận điểm mà
ông trình bày trong Luận cương. Luận cương đưa ra kết quả chung
cuộc của một lập luận triết học bao quát, bắt đầu bằng việc phản tư về bản chất
các mệnh đề, về tính có thể là đúng hay là sai của các mệnh đề. Chúng ta có thể
tìm hiểu đầy đủ quá trình hình thành tư tưởng triết học sơ kỳ của Wittgenstein
trong cuốn Những ghi chép được viết từ 1914 đến 1916 (Tagebücher
1914-16)(5). Wittgenstein
viết Những ghi chép trong suốt thời gian làm nghĩa vụ quân sự với tư
cách một quân nhân Áo trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Mặc dù cuốn nhật
ký được viết trong chiến hào ở mặt trận Nga và Ý, song không hề nói đến những
biến cố chiến tranh mà chỉ ghi chép những suy tư triết học; trong đó,
Wittgenstein khai mở các luận đề chính về triết học sơ kỳ của ông mà sau này,
được ông thể hiện trong Luận cương.
Theo Wittgenstein, các mệnh đề có thể là đúng hoặc sai
nếu nội dung của chúng được biểu đạt rõ ràng và rành mạch. Chỉ khi tôi nhận
biết được rõ ràng và rành mạch nội dung của một mệnh đề thì tôi mới có thể
tuyên bố được trong những trường hợp nào (văn cảnh nào) mệnh đề đó là đúng hay
sai. Những luận điểm đó đã cấu thành nên điểm khởi đầu của Wittgenstein trong
chương bốn của Luận cương.
“Hiểu một mệnh đề, nếu nó đúng, có nghĩa là biết cái gì
được hình thành. [...] Nó đơn giản chỉ được hiểu, bởi người nào hiểu được những
yếu tố cấu thành của nó”(6).
Chúng ta hãy lấy một ví dụ minh họa như sau: “It is
raining outside” – “bên ngoài trời đang mưa”. Nếu như chúng ta không biết “đang
mưa” nghĩa là gì thì chúng ta cũng không thể kiểm chứng được mệnh đề đó đúng
hay sai. Do đó, điều kiện đầu tiên để kiểm chứng hay phủ chứng một mệnh đề là
sự miêu tả đầy đủ về nội dung của nó - cái mà theo Wittgenstein chính là “bức
tranh (phản chiếu) của mệnh đề”. Trong cuốn Những ghi chép, giả thuyết
đầu tiên để kiểm chứng những mệnh đề ấy được trình bày như sau:
“Nếu một mệnh đề nói với chúng ta điều gì đó, thì nó phải
là bức tranh (phản chiếu) của hiện thực như là chính hiện thực đang hiện hữu,
và là một bức tranh hoàn chỉnh về hiện thực. Tất nhiên, sẽ có một số yếu tố nó không
thể truyền tải hết, nhưng những gì biểu đạt ra phải được biểu đạt đầy đủ và
được định dạng rõ ràng”(7).
Chỉ thông qua việc xác định rõ ràng nội dung mệnh đề thì
những điều kiện cho tính đúng hay sai của một mệnh đề – những điều kiện xác tín
(chân trị) của mệnh đề - mới được xác lập:
“Một mệnh đề quy định thực tại đến mức độ mà người ta chỉ
cần nói “Có” hay “Không”. Thực tại vì thế cần phải được miêu tả trọn vẹn (đầy
đủ) trong mệnh đề”(8).
Do đó, điều kiện đầu tiên để kiểm
chứng hay phủ chứng một mệnh đề là phải xác định được đầy đủ nội dung của nó:
Theo Wittgenstein, rõ ràng có rất nhiều mệnh đề trong ngôn ngữ hàng ngày không
đáp ứng được điều này - chúng thường mơ hồ, không xác định. Nhiệm vụ của các
triết gia là phải làm sáng tỏ nội dung của mệnh đề bằng cách sử dụng phép phân
tích khái niệm. Qua việc phân tích khái niệm, chúng ta sẽ phải tìm ra những
mệnh đề có nội dung rõ ràng và các điều kiện xác tín (chân trị) của chúng được
xác định đầy đủ. Vì lý do trên, việc phân tích các khái niệm sẽ phải đến hồi
kết – tìm đến cái được gọi là các mệnh đề đơn (mệnh đề cơ sở); nếu việc
phân tích không kết thúc, các điều kiện xác tín của mệnh đề sẽ không bao giờ
được xác định; tính chân thực của một mệnh đề sẽ luôn phụ thuộc vào các mệnh đề
khác (có mức độ cấu trúc) phức tạp hơn trong (thang bậc) hệ thống khái niệm của
chúng ta; từng bước phân tích như vậy sẽ thay đổi các điều kiện xác tín của
mệnh đề. Do đó, chúng ta phải công nhận các mệnh đề đơn là xuất phát
điểm trong hệ thống khái niệm của chúng ta. Các mệnh đề đơn là những
mệnh đề mà tính đúng sai của nó không phụ thuộc vào các mệnh đề khác, mà chỉ
phụ thuộc vào sự tương hợp hay không tương hợp về nội dung của nó với thực tại.
“Thật rõ
ràng rằng, sự
phân tích những
mệnh đề phải
mang lại cho
chúng ta những mệnh đề đơn, hàm chứa những tên gọi nối
kết trực tiếp với nhau”(9).
Các mệnh đề đơn này không chỉ không thể phân tích, mà xét
về mặt lôgíc, nó không phụ thuộc vào các mệnh đề đơn khác. “Đó là một ký hiệu
của mệnh đề đơn, mà không thể có mệnh đề đơn nào có thể mâu thuẫn với nó”(10).
Tính độc lập về mặt lôgíc của các mệnh đề đơn có thể còn được quy giản từ yêu
cầu rằng tính đúng hay sai của các mệnh đề đơn là phụ thuộc vào sự tương hợp
hay không tương hợp với thực tại và không phụ thuộc vào tính đúng sai của các
mệnh đề (đơn) khác.
Việc kiểm chứng các mệnh đề có nghĩa không chỉ có hàm ý
về các mệnh đề đơn độc lập về mặt lôgíc, mà còn hàm ý về thực tại với tư cách
là cơ sở đảm bảo điều kiện chân thực (xác tín) của mệnh đề. Trong thực tại nhất
thiết phải tồn tại những sự kiện mà mệnh đề có thể tương hợp hoặc không tương
hợp; các mệnh đề đơn chỉ có thể đúng khi các sự kiện cơ sở tồn tại trong thực
tiễn: “Mệnh đề đơn giản nhất là mệnh đề cơ sở, [nó] thể hiện sự hiện hữu của sự
kiện nguyên tử (atomic fact)”(11).
Chúng ta không chỉ cần các sự kiện tương hợp với nội dung
của các mệnh đề đúng, mà còn cần có cái tương ứng với nội dung của các mệnh đề
sai – những sự kiện tiêu cực (negative fact) tương ứng với các mệnh đề sai. Sự
kiện tiêu cực là một trạng huống có thể có (khả thể) nhưng không hiện hữu trên
thực tế. Tính đúng và tính sai, sự khẳng định và phủ định của mệnh đề tạo nên
hình thức lôgíc của mệnh đề (logical form). Thực tại phải có cái tương hợp với
hình thức lôgíc đó. Trong thực tại phải có không gian lôgíc (logical space) ôm
chứa tất cả các trạng huống có thể của sự vật mà các mệnh đề có thể tương hợp
hoặc không tương hợp.
“Lý luận miêu tả lôgíc, thông qua ngôn ngữ, diễn đạt một
cách tổng quát rằng: Để một mệnh đề có thể là đúng hay là sai, có phù hợp với
thực tại hay không, thì trong mệnh đề phải có cái gì đó đồng nhất với
thực tại”(12).
“Cái chung mà bất kỳ bức tranh nào
của bất cứ hình thức nào cũng phải có với thực tại để có thể phản ánh (biểu
đạt) được thực tại một cách chính xác hay không chính xác – là hình thức lôgíc,
nghĩa là hình thức của thực tại”(13).
Đối với Wittgenstein, các sự kiện là
mối liên hệ giữa các đối tượng (đơn thể); do đó chúng ta cần các đơn thể nguyên
tử/ đơn thuần cho các sự kiện nguyên tử. Vì vậy mà ở phần cuối trong hệ thống
kiến giải của Luận cương có mục “Bản
thể luận”, bao gồm các đơn thể giản đơn, các sự kiện nguyên
tử và các trạng huống khả thể... Tất cả đều được đặt trong không gian lôgíc.
“Bản thể luận của Luận cương” này là hệ quả sau cùng cho những nhận định
triết học [của Wittgenstein] về bản chất các mệnh đề đúng và sai, mà chúng ta
có thể tìm thấy ngay trong phần đầu của Luận cương:
“1. Thế giới là tất - cả. Tất cả là
hoàn - cảnh.
1.13. (Tất cả) Các sự kiện trong
không gian lôgíc là thế giới.
2. Hoàn cảnh, sự kiện, là sự hiện hữu của sự kiện nguyên
tử.
2.01. Sự kiện nguyên tử là sự kết hợp của các đơn thể
(vật thể, sự vật).
2.02. Đơn thể thì giản đơn.
2.021. Các đơn thể làm thành thực thể của thế giới. Do
đó, chúng không thể được là hợp thể.
2.0211. Nếu thế giới không có thực thể, thì một mệnh đề
có ý nghĩa hay không, phải tùy thuộc vào một mệnh đề khác đúng hay không.
2.0212. Trong trường hợp đó, chúng ta không thể hình dung
được một hình tượng nào về thế giới (dù thỏa đáng hay không)”(14).
Theo Wittgenstein, rõ ràng những nhận định bản thể luận
này tự thân nó là những mệnh đề vô nghĩa - chúng không thể kiểm chứng hay phủ
chứng được, bởi chúng chỉ đưa ra các điều kiện cần để các mệnh đề có nghĩa. Một
cách chắc chắn, [có thể nói rằng], các mệnh đề này giống như “các mệnh đề siêu hình học”. Wittgenstein thừa nhận rằng,
[mặc dù] các mệnh đề này là vô nghĩa nhưng đồng thời ông lại cho rằng chúng
nhất thiết phải có. Chức năng không rõ ràng này của các mệnh đề trong Luận
cương được diễn đạt qua phép tương tự (loại tỷ) với cây thang là công cụ
sau khi dùng xong thì phải vứt bỏ đi.
“Những mệnh đề của tôi, là để minh giải trong cách
này: Độc giả nào khi đã thấu hiểu được tôi, cuối cùng sẽ nhận ra rằng chúng (những
mệnh đề đó) là vô nghĩa, sau khi đã sử dụng chúng để trèo rồi dẫm vượt lên
chúng (nghĩa là người ấy phải vứt cái
thang đó đi, sau khi đã dùng nó để trèo). Sau khi đã vượt qua những mệnh đề của
tôi, độc giả hẳn sẽ nhận thức được thế giới một cách chân thực”(15).
2. Neurath phê bình triết lý
sơ kỳ của Wittgenstein.
Đối với Otto Neurath, những mệnh đề vô nghĩa làm nền tảng
cho những mệnh đề có nghĩa là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được. Là một
nhà khoa học xã hội, với tư cách giáo sư kinh
tế (Volkswirtschaftslehre), mối quan tâm chính của Neurath trong Nhóm Viên là sự thống nhất
tất cả các bộ môn khoa học, khoảng cách tệ hại/ khó chịu giữa những khoa gọi là
giải thích và khoa học thông hiểu (erklärende und verstehende Wissenschaften) nên được giải quyết bằng việc áp dụng các tiêu chuẩn
khoa học của những Khoa học thực nghiệm vào trong Khoa học xã hội và Nhân văn,
thậm chí cả triết học(16). Đối với khoa học riêng của Neurath, ông nhấn mạnh tầm
quan trọng của quy hoạch khoa học những quá trình kinh tế. Dưới chế độ Cộng hòa
Xô viết ở Munich năm 1919 (Räterepublik), Neurath đã trở thành Cục trưởng Cục trung tâm
Bavarian đặc trách kinh tế vụ và ông đã cố gắng thực hiện một nền kinh tế kế
hoạch tập trung ở Bavaria.
Tính kiểm chứng như một nguyên tắc của các mệnh đề có
nghĩa phải được áp dụng cho tất cả các bộ môn khoa học, không ngoại trừ bất cứ
bộ môn nào. Theo Neurath, tính kiểm chứng không chỉ là tiêu chí có giá trị cho
các mệnh đề khoa học, mà còn là điều kiện cần thiết để các mệnh đề có nghĩa
trong lĩnh vực của “khoa học thống
nhất". Không đi theo lý tưởng "khoa học hợp nhất" (Einheitswissenschaft),
ông bác bỏ sự tất yếu của
“các mệnh đề triết học đặc biệt" nào được
miễn khỏi yêu cầu kiểm chứng. Cũng theo
Neurath, chúng ta không thể đặt chính chúng
ta ra ngoài hệ thống các mệnh đề - những mệnh đề mà chúng ta sử dụng để mô tả
các hiện tượng khác nhau trong thế giới của chúng ta. Chẳng có cơ sở vững chắc
nào để các triết gia có thể sử dụng [nó] như là nền tảng cho những "siêu – nhận định (phán xét)"(17) (meta-considerations) của họ về bản
chất các mệnh đề khoa học.
“Chúng ta giống như các thủy thủ phải đóng lại tàu của họ giữa biển khơi mà
không thể nào tháo nó ra trên xưởng chữa tàu (dry dock) và tái tạo nó từ những
bộ phận cấu thành tốt nhất"(18).
Xuất phát từ quan điểm về khoa học thống nhất thì tất
cả các mệnh đề - thậm chí cả các mệnh đề triết học và các mệnh đề lôgíc - phải
được đưa về những nguyên tắc chung – có giá trị cho các mệnh đề có nghĩa, chúng
phải sẵn sàng để có thể được kiểm chứng và phủ chứng. Rõ ràng rằng, điều này đi
trệch với quan điểm duy tự nhiên toàn thể (global naturalistic attitude);
Neurath đã bác bỏ hầu hết các nguyên tắc về bản thể luận và siêu - ngôn ngữ
trong Luận cương như là [những nguyên tắc] vô nghĩa. Một số câu "đặc
biệt" này có thể chuyển thành các mệnh đề có nghĩa, song đa phần chúng phải
được loại bỏ.(18)
"Nạn nhân" tiếp theo trong thuyết kiểm chứng
toàn thể của Neurath là khái niệm về chân lý như là sự tương hợp giữa ngôn ngữ
và thực tại. Theo ông, lý thuyết chân lý tương hợp giả định những mệnh đề về cấu
trúc của thực tại mà không cần phải kiểm chứng hay phản chứng. Hơn thế nữa, trong quá trình kiểm chứng, chúng ta
cũng không thể so sánh những gì mang tính khái niệm với những gì không mang
tính khái niệm - chính thực tại. (Luận điểm này có thể được tìm thấy trong triết
học khoa học của Popper, mặc dù nó chưa đi tới kết luận cuối cùng như Neurath
đã làm). Vì lý do đó mà Neurath luôn "chung thủy" với lý thuyết chân
lý tương hợp.
“Việc kiểm chứng một số phát biểu là sự xem xét liệu
chúng phù hợp với một số phát biểu giao thức đến mức độ nào; vì thế chúng ta
bác bỏ mệnh đề cho rằng một phát biểu có thể được so sánh với “thực tại”,
và hơn thế nữa, từ khi “thực tại” đối với chúng ta được thay thế bằng năm bẩy tổng
thể các phát biểu nhất quán với chính nó chứ không phải với
các cái khác”(19).
Lý thuyết chân lý đối xứng mà Neurath đã trình bày đem
lại một hệ quả tai hại đối với chính thuyết kiểm chứng là: Không có chân lý
xác định (rạch ròi). Thậm chí, mỗi mệnh đề giao thức [dù] nằm ở cuối của
quá trình kiểm chứng thì nó cũng không miễn dịch đối với sự xét lại. [Chúng ta]
không có nghĩa vụ phải chấp nhận một mệnh đề giao thức khi mà nó không nhất
quán với phần còn lại của hệ thống khái niệm dựa trên nền tảng khoa học. Rõ
ràng rằng, Neurath đã không chấp thuận quan niệm về các mệnh đề đơn mà không thể
được phân tích sâu hơn; khi tất cả các mệnh đề hoàn toàn gắn liền với các bộ phận
khác trong hệ thống khái niệm của chúng ta thì sẽ không có sự độc lập lôgíc của
các mệnh đề đơn.)
3. Những nhận xét tổng quát
Sự đối lập về mặt triết học giữa Wittgenstein và
Neurath là ví dụ điển hình chứng minh những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực chứng
cấp tiến (radical positivism), làm suy yếu chính nghiên cứu tiếp cận theo thực
chứng luận hay kiểm chứng luận: Hoặc là ta phải thừa nhận thang bậc triết học của
Wittgenstein cũng như những nhận xét [về] siêu hình học của ông trong Tractatus
với tư cách là nền tảng bản thể luận của thuyết kiểm chứng hoặc là từ bỏ ý niệm
về sự kiểm chứng xác định do Neurath nêu. Theo đường lối thứ hai này thì bản
thân luận thuyết kiểm chứng (Verificationism) được tương đối hóa và được chuyển hóa thành phiên bản mang tính thực dụng
hơn của triết học khoa học.[3](19
Rốt
cuộc, nghiên cứu của Otto Neurath về viễn cảnh phát triển của triết học khoa học
có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều so với triết học sơ kỳ của Wittgenstein trong Luận cương. W.V.O Quine theo
đuổi quan điểm của Neurath, bởi cũng giống như Neurath, ông bác bỏ sự khác biệt
nghiêm ngặt giữa mệnh đề phân tích và mệnh đề tổng hợp. Việc chú trọng vào tính
toàn thể của hệ thống khái niệm (chỉnh thể luận (mang tính) khái niệm –
conceptual holism) và sự
bác bỏ cơ sở trung tính có thể
tạo ra những tiêu chí khách quan cho sự thử nghiệm các lý thuyết, đặt nền tảng
cho khái niệm cách mạng khoa học của Thomas S.Kuhn. Tuy nhiên, ảnh hưởng cuối
cùng trong phương pháp của Neurath lại chính là ở sự tương
đối hóa toàn diện các khái niệm chân lý và tính khách quan. Việc mô tả đặc điểm
không thể so sánh (bất khả ước) giữa các lý thuyết khác biệt nổi tiếng của
Thomas S.Kuhn và sự tương đối hóa triệt để của tri thức khoa học dựa trên
nguyên tắc "bất cứ điều gì cũng có thể trở thành nguyên tắc" của
Paul Feyerabend là những hệ quả có thể được rút ra từ cách tiếp cận của Neurath.
Người dịch: NGÔ HƯƠNG GIANG
Người hiệu đính: ThS. TRẦN TUẤN PHONG
(Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam)
(Bài đã đăng trên TC Triết học số 5
(264)/2013)
(*) Giáo sư, Đại học Innsbruck, Cộng hòa Áo.
(3)
L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học với lời giới thiệu của Bertrand
Russell. London, 1922.
(4) F.Waismann. Wittgenstein và
Nhóm Viên. Những đối thoại được ghi
lại, ed., by B.McGuiness, transl. by J.Schulte and
B.McGuiness. Blackwell, Oxford, 1967 (repr. 1979).
(5) L.Wittgenstein. Những ghi chép từ 1914-1916. Ed. By G.H.Von Wright and G.E.M. Nxb Anscombe, Oxford, 1961.
(6) L.Wittgenstein. Luận
cương lôgíc - triết học, 4.024. Bản dịch của Cao Dao. Nguồn: Talawas.org
(chú thích của người dịch – H.G.).
(7) L.Wittgenstein. Những ghi chép từ 1914-1916, 16.6.15.
(8) L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học, 4.023.
Bản dịch của Cao Dao. Nguồn: Talawas.org (chú thích của người dịch – H.G.).
(9) L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học,
4.221. Bản dịch của Cao Dao. Nguồn: Talawas.org (chú thích của người dịch –
H.G.).
(10) L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học,
4.211. (N.H.G. dịch).
(11) L. Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học,
4.21. (N.H.G. dịch).
(12)
L.Wittgenstein. Những ghi chép từ 1914-1916, 20.10.14. (N.H.G. dịch).
(13)
L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học, 2.18. (N.H.G. dịch).
(14) L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học. Bản dịch của
Cao Dao. Nguồn: Talawas.org (chú thích của người dịch – H.G.).
(15) L.Wittgenstein. Luận cương lôgíc - triết học.
(6.54). Bản dịch của Cao Dao. Nguồn: Talawas.org (chú thích của người dịch –
H.G.).
(16) Rudolf Haller. Chủ nghĩa tân thực chứng. Sđd.,
tr.155-159.
(17) "Siêu – trăn trở" (meta-considerations)
còn có thể được dịch là "Đại - trăn trở". Đây là một cách nói phúng
dụ của Giáo sư Josef Quiterer trong khi diễn giải quan điểm phê phán của Otto Neurath về các triết gia có khuynh hướng quá
"đề cao “các mệnh đề triết
học đặc biệt" hoặc các khuynh hướng xem việc hoàn toàn có thể
xác định được các “mệnh đề vô nghĩa
dựa trên các mệnh đề có nghĩa”, khi Neurath đề cập tới vấn đề
“bản chất của các mệnh đề khoa học". Chú thích của người dịch (N.H.G.).
(18) O.Neurath. Những bài viết triết học từ 1913 đến 1946,
ed. by R.S. Cohen and M.Neurath, Dordrecht. Reidel, 1983, tr.92.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét